Sunday, September 23, 2012

Cợt ông Chiêu Hổ

HÌNH BÓNG HỒ XUÂN HƯƠNG TRONG THƠ PHẠM ĐÌNH HỔ

TS PHẠM TRỌNG CHÁNH
Bùi Xuân Phái vẽ theo ý thơ Hồ Xuân Hương
Phạm Đình Hổ (1768-1839) chánh quán xã Đan Loan, huyện Đường Hào tỉnh Hải Dương nay là Hải Hưng. Hổ là ngọc hổ phách, từ nhựa thông chôn sâu vào lòng đất từ nhiều niên kỷ nên ông lấy bút hiệu là Tùng Niên, hay Kiều Niên là cây lâu năm.Ông còn có các bút hiệu khác: Bỉnh Trực, Đông Dã Triều. Con quan Tham Tri Phạm Đình Dư, còn tục gọi là Chiêu Hổ. Theo Phạm Đình Hổ. Tuyển tập thơ văn KHXH 1998 tr 143 : « Chữ Chiêu do chữ Chiêu Văn Quán, đời Vua Lê Trang Tông (1533-1548) đổi Sùng Văn Quán lập từ đời vua Lê Thánh Tông thành Chiêu Văn Quán, nơi tòng học con quan văn từ ngũ phẩm trở lên tam phẩm, con quan từ lục phẩm trở xuống học tại Tú Lâm Cục. Cậu Chiêu, cậu Tú bắt đầu từ thời này, chế độ thụ nghiệp ban hành năm 1492 bỏ lâu không giảng nữa, nhưng nhân gian vẫn tiếp tục gọi cậu Chiêu, cậu Tú. ». Ông Tú về sau lại dùng để chỉ những người đỗ Tú tài, ông Cử: người đỗ Cử Nhân, và ông Nghè: người đỗ Tiến Sĩ..và chữ chiêu dùng cho Cô Chiêu, con gái nhà quyền quý. Qua Vũ Trung Tùy bút ta chỉ thấy Phạm Đình Hổ tham dự bình văn tại Trường Quốc Tử Giám nơi ngày xưa trước đó chỉ dành cho các hoàng tử và con quan nhất phẩm, nhị phẩm.
Phạm Đình Hổ, mồ côi cha sớm lúc 10 tuổi, ông ở quê nhà với mẹ. Năm Giáp Thìn (1784-1785) 16 tuổi ông mới ra du học tại Thăng Long, ông theo học một vị thầy có lẽ là cụ Hồ Phi Diễn,(1703-1786) thân phụ Hồ Xuân Hương, và tham dự các buổi bình văn hằng tháng tại nhà Quốc Tử Giám, ông chưa kịp đi thi thì nhà Lê mất (1786). Thời loạn lạc ông về quê nhà hay đi học các nơi.
Trong thơ văn ông, chùa Kim Liên bên cạnh nhà Hồ Xuân Hương, là nơi ông thường đi lại. Bài Quá Kim Liên Tự, trong Đông dã học ngôn thi tập của Phạm Đình Hổ ông viết: « Bèo dạt làm thân khách cố kinh, Kim Liên qua lại đã bao lần »

Trong Tang Thương ngẫu lục . TTHL. Bộ Giáo Dục Sàigon 1971, quyển 2 tr 231. có bài ký tả cảnh chùa Kim Liên làng Nghi Tàm: « Mùa thu năm Đinh Tỵ (1797) tôi cùng các ông Nguyễn Thạch Hiên, Nguyễn Kính Phủ, Hoàng Hy Đỗ đến vãn cảnh chùa Kim Liên ở làng Nghi Tàm, nơi trụ trì cũ của hòa thượng Huệ (nội thị chúa Uy Vương). Bài viết ký bút hiệu Tùng Niên, có lẽ rằng Chiêu Hổ cùng các bạn đến thăm Cổ Nguyệt Đường và Xuân Hương ra về ghé thăm cảnh chùa Kim Liên. Nguyễn Thạch Hiên là học trò của Thiếu Du anh Phạm Đình Hổ, húy là Phổ quê ở Kinh Bắc, đậu khoa thi Hương năm Quý Mão, Nguyễn Kính Phủ là Nguyễn Án đỗ Cử nhân năm 1807 được bổ tri huyện Phù Dung, nơi Nguyễn Du từng trấn nhậm năm 1802-1803. Hoàng Hy Đỗ cha người Quãng Đông rất giỏi thơ và chữ viết rất đẹp.
Theo Vũ Trung Tùy Bút, trong hai năm 1798-1799, ông dạy học tại thôn Khánh Vân (nay xã Khánh Hà, huyện Thường Tín Hà Tây) hạ lưu sông Tô Lịch. Và Phạm Đình Hổ còn có nhà của gia đình ở phường Hà khẩu, phố Hàng Buồm. Nguyễn Án nhà ở gần Hồ Gươm cạnh đền Lý Quốc Sư.
Phạm Đình Hổ là cây bút tài hoa, thích kết bạn với những người đồng điệu, nhà nào có sách vở hay là ông tìm đến đọc, kết bạn thân. Khi ông ra Thăng Long, chưa được bao lâu thì người ông ái mộ thi ca và tài năng mà ông xem là nhà thơ lớn nhất nước cùng với Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Tông Khuê là quan Hoàng Giáp Hồ Sĩ Đống vừa qua đời. Phạm Đình Hổ có kiến thức uyên bác nhưng khác với Lê Quý Đôn nhà bác học, nhà bách khoa đọc nhiều sách Trung Quốc, làm thẻ tích lũy những gì ông đọc qua, Phạm Đình Hổ là người viết những điều mắt thấy tai nghe trong cuộc sống hằng ngày xã hội Việt Nam, vẽ ra toàn bộ khung cảnh xã hội đương thời. Vũ Trung tùy bút, ông thả bút lan man trong những ngày mưa, ông ghi chép tùy hứng, ngày nay bất cứ ai nghiên cứu một ngành gì trong xã hội Việt Nam, không thể thiếu những trích dẫn từ Vũ Trung Tùy Bút.
Thời Gia Long lên ngôi năm 1802, ông có tham dự khoa thi năm 1807 đỗ Tam Trường. Khoa 1813 ông thi hỏng, khoa 1819 đang thi bị bệnh bỏ ra về. Năm 1821 vua Minh Mạng ra Bắc, vời ông ra diện kiến và lưu ý khuyến khích việc làm sách, xuống chiếu ai tìm được sách cũ hay làm sách mới đều được ban thưởng. Phạm Đình Hổ nhân dịp ấy dâng sách lên, thì được ban thưởng. Vua vời ông ra và bổ làm Hành Tẩu, một tháng sau thăng làm Hàn Lâm Viện Biên Tu, ít lâu sau ông từ chức.
Năm 1822, các học trò ông là Lê Tông Quang đỗ Tiến sĩ, Nguyễn Xuân Phượng, Trương Mãn, Trương Đức Hoằng đỗ Cử nhân. Phạm Đình Hổ nổi tiếng là vị thầy giỏi.
Năm 1826 Vua Minh Mạng triệu ông ra cho làm Thừa chỉ Viện Hàn Lâm và Tế Tửu Quốc Tử Giám, nhưng năm sau ông cũng xin nghĩ bệnh rồi từ chức. Sau đó ông trở lại nhậm chức cũ được thăng Thị giảng Học sĩ. Đến năm 1832 ông về hưu luôn và mất năm 1839 thọ 71 tuổi.
Phạm Đình Hổ để lại nhiều trước tác: Lê Triều Hội điển, Bang giao điển lệ, An Nam chí, Càn khôn nhất lãm, Ai Lao sứ trình, Đạt Man quốc địa đồ (Chân Lạp), Hy Kinh trắc lãi, Nhật dụng thường đàm, Vũ Trung tùy bút, Tang Thương ngẫu lục (hợp với Nguyễn Án), Quốc Sử tiểu học, Hành tại diện đối (Ghi lại cuộc gặp gỡ ông với vua Minh Mệnh), Quần thư tham khảo, Châu phong tạp khảo, Châu Phong thi tập. Đông Dã học ngôn thi tập.(Xem Nguyễn Q. Thắng. Tự điển danh nhân Việt Nam, tr 735)
Trong thơ chữ Hán của Phạm Đình Hổ có bốn bài thơ viết về một người con gái ở kinh đô Thăng Long, ông không nói tên : biết làm thơ, yêu hoa mai, biết đàn, nhỏ tuổi hơn ông. Chưa kể các yếu tố khác. Ngày nay nếu tại Hà Nội, tìm một cô gái như thế tên gì, thì chả khác chi tìm cây kim trong đống rơm, nhưng ở thời đại ông, kinh đô Thăng Long vài chục ngàn dân, là một cái thành, vài chục phố phường và làng mạc bao bọc chung quanh, các thiếu nữ biết làm thơ bao thế kỷ chưa thể kể đủ tên trên mười đầu ngón tay, và người thiếu nữ ấy yêu hoa mai nữa, khỏi cần là « nhà trinh thám » ta biết ngay thiếu nữ đó là Xuân Hương Hồ Phi Mai. Phạm Đình Hổ viết các bài thơ về một cô gái: bài Sở hữu cảm, Thiếu nữ tản kiều, Hoài cổ, Vô đề. Tôi dịch và giải thích từng bài:
Bài Sở hữu cảm tả một cô gái nhỏ ở kinh đô, đôi tay còn vấn tóc thề, còn ở khuê phòng cha mẹ khá giả nuôi dưỡng không biết khổ cuộc đời (thế kỷ 18, trẻ em gái làm việc rất sớm từ 7, 8 tuổi đã cấy lúa, cắt cỏ, sàng gạo, ẳm em, nấu cơm, bán hàng rong..) cô chỉ thích làm việc nhàn hạ là quét hoa rụng bay về trong sân. Cô gái nhỏ kinh đô Thăng Long ấy, có đôi mi đen như vầng trăng non, vì yêu hoa mai thanh khiết nên chẳng nề gió lạnh lùng. Cô gái đã có tâm hồn thơ vì yêu hoa mai trắng trong, nên quét hoa, cô không lười biếng. Cô gái kinh đô Thăng Long ngồi nhìn hoa, buông cây đàn cười chẳng gảy, ngại làm ai chạnh lòng. Bài thơ có lẽ làm năm 1784-1785 lúc Phạm Đình Hổ mới, 16, 17 tuổi, mới ra du học tại Thăng Long, học tại Cổ Nguyệt Đường của cụ Đồ Diễn, ngôi nhà hình vuông giữa sân trống có hòn non bộ, lớp học nơi tiền viện, chàng ngồi ' sôi kinh, nấu sử ', thỉnh thoảng liếc mắt ra sân, cô con gái yêu của thầy,13, 14 tuổi đọc sách thơ, phú nơi khuê phòng bên hữu viện, đôi tay thường vấn tóc thề làm dáng, thỉnh thoảng ôm đàn, nhưng chẳng gảy (gảy ồn ào, cha đang giảng kinh sách, bình văn ) thỉnh thoảng tỏ sự hiện diện của mình bằng cách 'biểu diễn' ra sân trước, vườn sau quét sân hoa rụng, tỏ ra vẻ mình là gái siêng năng cần mẫn, công dung ngôn hạnh và nghe lén xem cha bình văn đang khen bài của ai ?
Cảm hứng

Trường An cô gái nhỏ,
Đôi tay vấn tóc thề,
Khuê phòng không biết khổ,
Quét hoa rụng bay về.
Trường An cô gái nhỏ,
Mi đen vầng trăng non,
Vì yêu mai thanh khiết,
Chẳng nề gió lạnh lùng.
Trường An cô gái nhỏ,
Nhìn hoa tựa bên song.
Buông đàn cười chẳng gảy,
Sợ làm ai chạnh lòng.

Thơ chữ Hán Phạm Đình Hổ,
 Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

Sở hữu cảm

Trường An tiểu nhi nữ,
Tiêm thủ quản tiểu hoàn,
Thâm khuê bất tri khổ,
Do tảo lạc hoa khan.
Trường An tiểu nhi nữ,
Mi đại nguyệt song loan,
Vị ái mai hoa khiết,
Lâm phong bất giác hoàn.
Trường An tiểu nhi nữ,
Hoa tiền độc ỷ lan,
Chỉ phạ đàn lang thính,
Hoành cầm bất tiếu đàn.
Bài Thiếu nữ tản kiều , Thiếu nữ làm duyên tả một cô gái vừa mới biết điểm trang, học kẻ mày lá liễu, đứng trước gương ngắm nghía bóng mình, uốn éo như đứt ruột, không nhớ rằng nơi gấu váy, còn vướng bông cỏ may lúc đuổi bướm hái hoa.

Thiếu nữ làm duyên

Thiếu nữ nhà ai đó,
Trước gió vụng điểm trang.
Mày thưa học nét liễu,
Tóc ngắn vừa tỏa hương.
Trước gương thướt tha đứng,
Uốn éo như đoạn trường.
Nào hay nơi gấu váy,
Đầy cỏ may bên đường.

Thơ chữ Hán Phạm Đình Hổ
Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

Thiếu nữ tản kiều
Thiếu tiểu thùy gia nữ,
Phong tiền mại tiếu trang.
Thiển mi chung học liễu,
Đinh mẫn tảo sơ hương.
Niểu niểu sơ lâm kính,
Y y tự đoạn trường,
Bất tri bồng tất lý,
Áp tuyến chính phùng thường.
Bài thơ hoàn toàn phù hợp với Xuân Hương Hồ Phi Mai những năm 1790-1791, cô gái mới lớn bắt đầu biết yêu, bắt đầu để ý đến nhan sắc của mình, học kẻ lông mày vụng về, đứng trước gương ngắm bóng mình. Câu : Y y tự đoạn trường, uốn éo như đứt ruột cho ta phỏng đoán thêm một chi tiết thú vị, cô gái ấy đang mới yêu một chàng công tử đang diễn nôm truyện « Đoạn trường tân thanh », chàng trai ấy sau ba năm phiêu bạt giang hồ đi vạn dậm Trung Quốc, mang về quyển Kim Vân Kiều truyện, chàng say mê diễn ca thơ nôm, gặp ai chàng cùng thuyết giảng, kể chuyện về Hồng nhan đa truân. Bạn bè chàng Phạm Quý Thích thì khuyến khích, Đoàn Nguyễn Tuấn bị ảnh hưởng viết cả một bài thơ về Hồng nhan đa truân trong Hải Ông Thi tập, nhưng Phạm Đình Hổ thì chế nhạo, nên nguyên cả tùy bút, thơ văn mình viết về bạn bè đương thời, có cả một bài viết về họ Nguyễn Tiên Điền,(trong Vũ Trung tùy bút) một bài viết cho Nguyễn Tiên Điền(trong thơ văn Phạm Đình Hổ) không rõ là cho Nguyễn Nể hay Nguyễn Du, nhưng không hề một chữ nào nhắc đến Nguyễn Du viết Đoạn Trường Tân Thanh. Điều này tôi có trao đổi với GS Hoàng Xuân Hãn và GS Nguyễn Tài Cẩn. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn phỏng đoán rằng Nguyễn Du viết Truyện Kiều rất sớm từ năm 1790 lúc còn rảnh rỗi vì sau đó khi ra làm quan, Nguyễn Du không có thì giờ để viết một truyện nôm như thế. GS Nguyễn Tài Cẩn, sau mười năm tìm chữ húy trên 10 văn bản cổ nhất Truyện Kiều đã đi đến kết luận, Truyện Kiều được viết trước thời Gia Long (1802) vì có nhiều chữ húy thời Lê Trịnh.
Bài Hoài Cổ chế nhạo một cô gái được mẹ gả chồng xóm Tây gần, dấu nỗi lòng yêu đương một hình bóng khác nên nhìn hoa mà khóc, bên hoa nàng cười nụ, thổ lộ nỗi lòng trong thơ văn. Bài này phù hợp với tâm tình Hồ Xuân Hương khoảng năm 1795-1796, khi Nguyễn Du ở Hồng Lĩnh toan vượt biên trốn vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh bị Trấn Thủ Nguyễn Văn Thận bắt giam ba tháng, tin này ra Thăng Long, mẹ Hồ Xuân Hương đã thôi thúc gả nàng cho anh Thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Nhại vần thơ Thôi Hộ: Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông. Phạm Đình Hổ thầm kín nhạo báng Xuân Hương...

Nhớ xưa

Năm xưa hoa đào nở,
Em tôi học cài trâm,
Năm nay hoa đào nở,
Mẹ gả xóm Tây gần.
Năm xưa hoa đào nở,
Gió xuân sao lạnh lùng,
Em nhìn hoa mà khóc,
Sầu vương nét mi cong.
Năm nay hoa đào nở,
Cỏ xuân mượt trời mơ,
Bên hoa em cười nụ,
Ngâm thành tự đề thơ.

Thơ chữ Hán Phạm Đình Hổ 
Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt

Hoài cổ

Khứ tuế đào hoa phát,
Lân nữ sơ học kê,
Kim tuế đào hoa phát,
Dĩ giá lân gia tê (tây)
Khứ tuế đào hoa phát,
Xuân phong hà thê thê,
Lân nữ đối hoa khấp,
Sầu thâm mi chuyển đê.
Kim tuế đào hoa phát,
Xuân thảo hà thê thê,
Lân nữ đối hoa tiếu,
Ngâm thành thủ tự đề.
Cô gái biết làm thơ, dấu nỗi lòng yêu một người đã gặp gỡ dưới hoa đào, lẽ ra phải vui khi mẹ gả lấy chồng, nàng lại âm thầm khóc bên hoa thương nhớ người xa, điều này phù hợp với tâm sự Hồ Xuân Hương khi mối tình đầu với Nguyễn Du tan vỡ.
Bài Tống Liên Cừ Mai Công phó Vị Hoàng, tiễn ông họ Mai người Liên Cừ đi Vị Hoàng : Ngày hè, chống gậy trúc đi xa cố đô xuống Vị Hoàng lấy thuyền về Vịnh Phố ( Vinh) về quê hương nơi thương nhớ xa mờ. Mưa lâm râm trên sông Hoàng giang làm ướt hoa mai nở.. Hoa mai nở cuối đông đầu xuân, mùa hè làm gì còn hoa mai nở, chỉ có Hồ Phi Mai khóc tiễn đưa người tình Mai Sơn Phủ về quê hương. Về Vinh lúa thơm vàng mùa thu. Vời ngóng non cao cây lớp lớp. Hứng thơ trên cánh buồm lướt ven bờ biển. Thôi hẹn bạn ngày quay lại Thăng Long cùng rong chơi quanh hồ Hoàn Kiếm hóng gió mát trên tay áo rộng.
Gậy trúc ngày hè xa cố đô,
Giang Nam thương nhớ bóng xa mờ.
Hoàng giang mưa điểm hương mai nở,
Vịnh phố rực vàng thơm lúa thu.
Vời ngóng non cao cây lớp lớp,
Hứng về biển thẳm cánh buồm mơ.
Người đi hẹn ước ngày quay lại,
Tay áo thung thăng gió Kiếm Hồ.

Thơ chữ Hán Phạm Đình Hổ
Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

Hạ nhật huề cùng xuất cố đô,
Giang Nam nam hạ tứ du du.
Sơ mai hương đậu Hoàng Giang vũ.
Dã mạch tình thâm Vịnh phố thu.
Vọng nhập tiền sơn khan võng thụ,
Hứng tùy thương hải phiếm hư chu.
Lâm kỳ ước lược quy lai nhật.
Mãn thụ thanh phong phản Kiếm hồ.

Giang Nam: Dữu Tín người đời Tống Nam Bắc Triều làm quan xa làm quan xa lâu ngày không về nhà có làm bài Ai Giang Nam Phú tỏ lòng thương nhớ quê hương. Từ đó chữ Giang Nam có nghĩa là lòng nhớ quê hương.
Theo tôi, Mai Sơn Phủ hay Mai Công là bạn Phạm Đình Hổ cũng là người tình của Hồ Xuân Hương, trong Lưu Hương Ký còn lưu lại những bài thơ tình nồng nàn thắm thiết., hai người đã cắt tóc, trích máu vào chén rượu thề sinh tử có nhau.. Phạm Đình Hổ và Xuân Hương Hồ Phi Mai cùng tiễn Mai Sơn Phủ nơi bến sông Vị Hoàng (Nam Định ngày nay.) vào khoảng năm 1801, Mai Sơn Phủ về quê cậy cha mẹ hỏi cưới Xuân Hương. Nhưng rồi chàng biệt tăm trong cơn tao loạn cuối đời Tây Sơn.
Bài Vô Đề : Phạm Đình Hổ trêu Xuân Hương khi nàng được mẹ gả cho anh thầy lang xóm Tây làng Nghi Tàm, nhưng Chiêu Hổ cũng xót xa lắm vì chàng cũng thầm yêu Xuân Hương. Bài thơ Vô Đề viết cho một tình yêu sâu kín: Yêu nàng từ thuở 12, 13 và mười năm sau nàng đã lấy chồng. Yêu nàng từng say đắm với bàn tay gảy đàn, bàn tay làm thơ, bàn tay quét hoa mai rụng. Tình yêu không nói, ngày tháng trôi qua hai mươi xuân. Yêu vẻ đẹp nàng mà tiếc hoa, tiếc mộng. Tiếc không hẹn trăng với nàng từ thuở nàng biết yêu. Lòng hận như chim tinh vệ ngậm đá lấp biển. Tình như hương cỏ, chỉ biết hỏi trời. Bên bóng mát Hồ Tây xuân tàn lặng lẽ, ngoài song con chim cuốc nhảy một mình.Bài thơ thật là một tuyệt tác nói về tình yêu câm nín, say đắm, say mê, nhưng không nói ra. Câu minh cưu hữu hận nan điền hải, chim kêu lòng hận lấp bằng biển thật là cực mạnh, tình hận vô vọng như chim tinh vệ ngày ngày gắp từng viên đá sỏi để lấp biển. Vì sao không nói, vì sao không ngỏ lời với nàng, không cậy mẹ đến hỏi cưới nàng để Nguyễn Du, để anh thầy Lang, để Mai Sơn Phủ phỏng tay trên ? Ôi thôi tình duyên như hương cỏ chỉ biết hỏi trời. Có phải vì ta không yêu nàng nên nàng lận đận, đời ta như con cuốc « ngoại cuộc » nhảy một mình .
TS PHẠM TRỌNG CHÁNH
Bùi Xuân Phái vẽ theo ý thơ Hồ Xuân Hương
Phạm Đình Hổ (1768-1839) chánh quán xã Đan Loan, huyện Đường Hào tỉnh Hải Dương nay là Hải Hưng. Hổ là ngọc hổ phách, từ nhựa thông chôn sâu vào lòng đất từ nhiều niên kỷ nên ông lấy bút hiệu là Tùng Niên, hay Kiều Niên là cây lâu năm.Ông còn có các bút hiệu khác: Bỉnh Trực, Đông Dã Triều. Con quan Tham Tri Phạm Đình Dư, còn tục gọi là Chiêu Hổ. Theo Phạm Đình Hổ. Tuyển tập thơ văn KHXH 1998 tr 143 : « Chữ Chiêu do chữ Chiêu Văn Quán, đời Vua Lê Trang Tông (1533-1548) đổi Sùng Văn Quán lập từ đời vua Lê Thánh Tông thành Chiêu Văn Quán, nơi tòng học con quan văn từ ngũ phẩm trở lên tam phẩm, con quan từ lục phẩm trở xuống học tại Tú Lâm Cục. Cậu Chiêu, cậu Tú bắt đầu từ thời này, chế độ thụ nghiệp ban hành năm 1492 bỏ lâu không giảng nữa, nhưng nhân gian vẫn tiếp tục gọi cậu Chiêu, cậu Tú. ». Ông Tú về sau lại dùng để chỉ những người đỗ Tú tài, ông Cử: người đỗ Cử Nhân, và ông Nghè: người đỗ Tiến Sĩ..và chữ chiêu dùng cho Cô Chiêu, con gái nhà quyền quý. Qua Vũ Trung Tùy bút ta chỉ thấy Phạm Đình Hổ tham dự bình văn tại Trường Quốc Tử Giám nơi ngày xưa trước đó chỉ dành cho các hoàng tử và con quan nhất phẩm, nhị phẩm.
Phạm Đình Hổ, mồ côi cha sớm lúc 10 tuổi, ông ở quê nhà với mẹ. Năm Giáp Thìn (1784-1785) 16 tuổi ông mới ra du học tại Thăng Long, ông theo học một vị thầy có lẽ là cụ Hồ Phi Diễn,(1703-1786) thân phụ Hồ Xuân Hương, và tham dự các buổi bình văn hằng tháng tại nhà Quốc Tử Giám, ông chưa kịp đi thi thì nhà Lê mất (1786). Thời loạn lạc ông về quê nhà hay đi học các nơi.
Trong thơ văn ông, chùa Kim Liên bên cạnh nhà Hồ Xuân Hương, là nơi ông thường đi lại. Bài Quá Kim Liên Tự, trong Đông dã học ngôn thi tập của Phạm Đình Hổ ông viết: « Bèo dạt làm thân khách cố kinh, Kim Liên qua lại đã bao lần »

Trong Tang Thương ngẫu lục . TTHL. Bộ Giáo Dục Sàigon 1971, quyển 2 tr 231. có bài ký tả cảnh chùa Kim Liên làng Nghi Tàm: « Mùa thu năm Đinh Tỵ (1797) tôi cùng các ông Nguyễn Thạch Hiên, Nguyễn Kính Phủ, Hoàng Hy Đỗ đến vãn cảnh chùa Kim Liên ở làng Nghi Tàm, nơi trụ trì cũ của hòa thượng Huệ (nội thị chúa Uy Vương). Bài viết ký bút hiệu Tùng Niên, có lẽ rằng Chiêu Hổ cùng các bạn đến thăm Cổ Nguyệt Đường và Xuân Hương ra về ghé thăm cảnh chùa Kim Liên. Nguyễn Thạch Hiên là học trò của Thiếu Du anh Phạm Đình Hổ, húy là Phổ quê ở Kinh Bắc, đậu khoa thi Hương năm Quý Mão, Nguyễn Kính Phủ là Nguyễn Án đỗ Cử nhân năm 1807 được bổ tri huyện Phù Dung, nơi Nguyễn Du từng trấn nhậm năm 1802-1803. Hoàng Hy Đỗ cha người Quãng Đông rất giỏi thơ và chữ viết rất đẹp.
Theo Vũ Trung Tùy Bút, trong hai năm 1798-1799, ông dạy học tại thôn Khánh Vân (nay xã Khánh Hà, huyện Thường Tín Hà Tây) hạ lưu sông Tô Lịch. Và Phạm Đình Hổ còn có nhà của gia đình ở phường Hà khẩu, phố Hàng Buồm. Nguyễn Án nhà ở gần Hồ Gươm cạnh đền Lý Quốc Sư.
Phạm Đình Hổ là cây bút tài hoa, thích kết bạn với những người đồng điệu, nhà nào có sách vở hay là ông tìm đến đọc, kết bạn thân. Khi ông ra Thăng Long, chưa được bao lâu thì người ông ái mộ thi ca và tài năng mà ông xem là nhà thơ lớn nhất nước cùng với Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Tông Khuê là quan Hoàng Giáp Hồ Sĩ Đống vừa qua đời. Phạm Đình Hổ có kiến thức uyên bác nhưng khác với Lê Quý Đôn nhà bác học, nhà bách khoa đọc nhiều sách Trung Quốc, làm thẻ tích lũy những gì ông đọc qua, Phạm Đình Hổ là người viết những điều mắt thấy tai nghe trong cuộc sống hằng ngày xã hội Việt Nam, vẽ ra toàn bộ khung cảnh xã hội đương thời. Vũ Trung tùy bút, ông thả bút lan man trong những ngày mưa, ông ghi chép tùy hứng, ngày nay bất cứ ai nghiên cứu một ngành gì trong xã hội Việt Nam, không thể thiếu những trích dẫn từ Vũ Trung Tùy Bút.
Thời Gia Long lên ngôi năm 1802, ông có tham dự khoa thi năm 1807 đỗ Tam Trường. Khoa 1813 ông thi hỏng, khoa 1819 đang thi bị bệnh bỏ ra về. Năm 1821 vua Minh Mạng ra Bắc, vời ông ra diện kiến và lưu ý khuyến khích việc làm sách, xuống chiếu ai tìm được sách cũ hay làm sách mới đều được ban thưởng. Phạm Đình Hổ nhân dịp ấy dâng sách lên, thì được ban thưởng. Vua vời ông ra và bổ làm Hành Tẩu, một tháng sau thăng làm Hàn Lâm Viện Biên Tu, ít lâu sau ông từ chức.
Năm 1822, các học trò ông là Lê Tông Quang đỗ Tiến sĩ, Nguyễn Xuân Phượng, Trương Mãn, Trương Đức Hoằng đỗ Cử nhân. Phạm Đình Hổ nổi tiếng là vị thầy giỏi.
Năm 1826 Vua Minh Mạng triệu ông ra cho làm Thừa chỉ Viện Hàn Lâm và Tế Tửu Quốc Tử Giám, nhưng năm sau ông cũng xin nghĩ bệnh rồi từ chức. Sau đó ông trở lại nhậm chức cũ được thăng Thị giảng Học sĩ. Đến năm 1832 ông về hưu luôn và mất năm 1839 thọ 71 tuổi.
Phạm Đình Hổ để lại nhiều trước tác: Lê Triều Hội điển, Bang giao điển lệ, An Nam chí, Càn khôn nhất lãm, Ai Lao sứ trình, Đạt Man quốc địa đồ (Chân Lạp), Hy Kinh trắc lãi, Nhật dụng thường đàm, Vũ Trung tùy bút, Tang Thương ngẫu lục (hợp với Nguyễn Án), Quốc Sử tiểu học, Hành tại diện đối (Ghi lại cuộc gặp gỡ ông với vua Minh Mệnh), Quần thư tham khảo, Châu phong tạp khảo, Châu Phong thi tập. Đông Dã học ngôn thi tập.(Xem Nguyễn Q. Thắng. Tự điển danh nhân Việt Nam, tr 735)
Trong thơ chữ Hán của Phạm Đình Hổ có bốn bài thơ viết về một người con gái ở kinh đô Thăng Long, ông không nói tên : biết làm thơ, yêu hoa mai, biết đàn, nhỏ tuổi hơn ông. Chưa kể các yếu tố khác. Ngày nay nếu tại Hà Nội, tìm một cô gái như thế tên gì, thì chả khác chi tìm cây kim trong đống rơm, nhưng ở thời đại ông, kinh đô Thăng Long vài chục ngàn dân, là một cái thành, vài chục phố phường và làng mạc bao bọc chung quanh, các thiếu nữ biết làm thơ bao thế kỷ chưa thể kể đủ tên trên mười đầu ngón tay, và người thiếu nữ ấy yêu hoa mai nữa, khỏi cần là « nhà trinh thám » ta biết ngay thiếu nữ đó là Xuân Hương Hồ Phi Mai. Phạm Đình Hổ viết các bài thơ về một cô gái: bài Sở hữu cảm, Thiếu nữ tản kiều, Hoài cổ, Vô đề. Tôi dịch và giải thích từng bài:
Bài Sở hữu cảm tả một cô gái nhỏ ở kinh đô, đôi tay còn vấn tóc thề, còn ở khuê phòng cha mẹ khá giả nuôi dưỡng không biết khổ cuộc đời (thế kỷ 18, trẻ em gái làm việc rất sớm từ 7, 8 tuổi đã cấy lúa, cắt cỏ, sàng gạo, ẳm em, nấu cơm, bán hàng rong..) cô chỉ thích làm việc nhàn hạ là quét hoa rụng bay về trong sân. Cô gái nhỏ kinh đô Thăng Long ấy, có đôi mi đen như vầng trăng non, vì yêu hoa mai thanh khiết nên chẳng nề gió lạnh lùng. Cô gái đã có tâm hồn thơ vì yêu hoa mai trắng trong, nên quét hoa, cô không lười biếng. Cô gái kinh đô Thăng Long ngồi nhìn hoa, buông cây đàn cười chẳng gảy, ngại làm ai chạnh lòng. Bài thơ có lẽ làm năm 1784-1785 lúc Phạm Đình Hổ mới, 16, 17 tuổi, mới ra du học tại Thăng Long, học tại Cổ Nguyệt Đường của cụ Đồ Diễn, ngôi nhà hình vuông giữa sân trống có hòn non bộ, lớp học nơi tiền viện, chàng ngồi ' sôi kinh, nấu sử ', thỉnh thoảng liếc mắt ra sân, cô con gái yêu của thầy,13, 14 tuổi đọc sách thơ, phú nơi khuê phòng bên hữu viện, đôi tay thường vấn tóc thề làm dáng, thỉnh thoảng ôm đàn, nhưng chẳng gảy (gảy ồn ào, cha đang giảng kinh sách, bình văn ) thỉnh thoảng tỏ sự hiện diện của mình bằng cách 'biểu diễn' ra sân trước, vườn sau quét sân hoa rụng, tỏ ra vẻ mình là gái siêng năng cần mẫn, công dung ngôn hạnh và nghe lén xem cha bình văn đang khen bài của ai ?
Cảm hứng

Trường An cô gái nhỏ,
Đôi tay vấn tóc thề,
Khuê phòng không biết khổ,
Quét hoa rụng bay về.
Trường An cô gái nhỏ,
Mi đen vầng trăng non,
Vì yêu mai thanh khiết,
Chẳng nề gió lạnh lùng.
Trường An cô gái nhỏ,
Nhìn hoa tựa bên song.
Buông đàn cười chẳng gảy,
Sợ làm ai chạnh lòng.

Thơ chữ Hán Phạm Đình Hổ,
 Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

Sở hữu cảm

Trường An tiểu nhi nữ,
Tiêm thủ quản tiểu hoàn,
Thâm khuê bất tri khổ,
Do tảo lạc hoa khan.
Trường An tiểu nhi nữ,
Mi đại nguyệt song loan,
Vị ái mai hoa khiết,
Lâm phong bất giác hoàn.
Trường An tiểu nhi nữ,
Hoa tiền độc ỷ lan,
Chỉ phạ đàn lang thính,
Hoành cầm bất tiếu đàn.
Bài Thiếu nữ tản kiều , Thiếu nữ làm duyên tả một cô gái vừa mới biết điểm trang, học kẻ mày lá liễu, đứng trước gương ngắm nghía bóng mình, uốn éo như đứt ruột, không nhớ rằng nơi gấu váy, còn vướng bông cỏ may lúc đuổi bướm hái hoa.

Thiếu nữ làm duyên

Thiếu nữ nhà ai đó,
Trước gió vụng điểm trang.
Mày thưa học nét liễu,
Tóc ngắn vừa tỏa hương.
Trước gương thướt tha đứng,
Uốn éo như đoạn trường.
Nào hay nơi gấu váy,
Đầy cỏ may bên đường.

Thơ chữ Hán Phạm Đình Hổ
Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

Thiếu nữ tản kiều
Thiếu tiểu thùy gia nữ,
Phong tiền mại tiếu trang.
Thiển mi chung học liễu,
Đinh mẫn tảo sơ hương.
Niểu niểu sơ lâm kính,
Y y tự đoạn trường,
Bất tri bồng tất lý,
Áp tuyến chính phùng thường.
Bài thơ hoàn toàn phù hợp với Xuân Hương Hồ Phi Mai những năm 1790-1791, cô gái mới lớn bắt đầu biết yêu, bắt đầu để ý đến nhan sắc của mình, học kẻ lông mày vụng về, đứng trước gương ngắm bóng mình. Câu : Y y tự đoạn trường, uốn éo như đứt ruột cho ta phỏng đoán thêm một chi tiết thú vị, cô gái ấy đang mới yêu một chàng công tử đang diễn nôm truyện « Đoạn trường tân thanh », chàng trai ấy sau ba năm phiêu bạt giang hồ đi vạn dậm Trung Quốc, mang về quyển Kim Vân Kiều truyện, chàng say mê diễn ca thơ nôm, gặp ai chàng cùng thuyết giảng, kể chuyện về Hồng nhan đa truân. Bạn bè chàng Phạm Quý Thích thì khuyến khích, Đoàn Nguyễn Tuấn bị ảnh hưởng viết cả một bài thơ về Hồng nhan đa truân trong Hải Ông Thi tập, nhưng Phạm Đình Hổ thì chế nhạo, nên nguyên cả tùy bút, thơ văn mình viết về bạn bè đương thời, có cả một bài viết về họ Nguyễn Tiên Điền,(trong Vũ Trung tùy bút) một bài viết cho Nguyễn Tiên Điền(trong thơ văn Phạm Đình Hổ) không rõ là cho Nguyễn Nể hay Nguyễn Du, nhưng không hề một chữ nào nhắc đến Nguyễn Du viết Đoạn Trường Tân Thanh. Điều này tôi có trao đổi với GS Hoàng Xuân Hãn và GS Nguyễn Tài Cẩn. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn phỏng đoán rằng Nguyễn Du viết Truyện Kiều rất sớm từ năm 1790 lúc còn rảnh rỗi vì sau đó khi ra làm quan, Nguyễn Du không có thì giờ để viết một truyện nôm như thế. GS Nguyễn Tài Cẩn, sau mười năm tìm chữ húy trên 10 văn bản cổ nhất Truyện Kiều đã đi đến kết luận, Truyện Kiều được viết trước thời Gia Long (1802) vì có nhiều chữ húy thời Lê Trịnh.
Bài Hoài Cổ chế nhạo một cô gái được mẹ gả chồng xóm Tây gần, dấu nỗi lòng yêu đương một hình bóng khác nên nhìn hoa mà khóc, bên hoa nàng cười nụ, thổ lộ nỗi lòng trong thơ văn. Bài này phù hợp với tâm tình Hồ Xuân Hương khoảng năm 1795-1796, khi Nguyễn Du ở Hồng Lĩnh toan vượt biên trốn vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh bị Trấn Thủ Nguyễn Văn Thận bắt giam ba tháng, tin này ra Thăng Long, mẹ Hồ Xuân Hương đã thôi thúc gả nàng cho anh Thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Nhại vần thơ Thôi Hộ: Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông. Phạm Đình Hổ thầm kín nhạo báng Xuân Hương...

Nhớ xưa

Năm xưa hoa đào nở,
Em tôi học cài trâm,
Năm nay hoa đào nở,
Mẹ gả xóm Tây gần.
Năm xưa hoa đào nở,
Gió xuân sao lạnh lùng,
Em nhìn hoa mà khóc,
Sầu vương nét mi cong.
Năm nay hoa đào nở,
Cỏ xuân mượt trời mơ,
Bên hoa em cười nụ,
Ngâm thành tự đề thơ.

Thơ chữ Hán Phạm Đình Hổ 
Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt

Hoài cổ

Khứ tuế đào hoa phát,
Lân nữ sơ học kê,
Kim tuế đào hoa phát,
Dĩ giá lân gia tê (tây)
Khứ tuế đào hoa phát,
Xuân phong hà thê thê,
Lân nữ đối hoa khấp,
Sầu thâm mi chuyển đê.
Kim tuế đào hoa phát,
Xuân thảo hà thê thê,
Lân nữ đối hoa tiếu,
Ngâm thành thủ tự đề.
Cô gái biết làm thơ, dấu nỗi lòng yêu một người đã gặp gỡ dưới hoa đào, lẽ ra phải vui khi mẹ gả lấy chồng, nàng lại âm thầm khóc bên hoa thương nhớ người xa, điều này phù hợp với tâm sự Hồ Xuân Hương khi mối tình đầu với Nguyễn Du tan vỡ.
Bài Tống Liên Cừ Mai Công phó Vị Hoàng, tiễn ông họ Mai người Liên Cừ đi Vị Hoàng : Ngày hè, chống gậy trúc đi xa cố đô xuống Vị Hoàng lấy thuyền về Vịnh Phố ( Vinh) về quê hương nơi thương nhớ xa mờ. Mưa lâm râm trên sông Hoàng giang làm ướt hoa mai nở.. Hoa mai nở cuối đông đầu xuân, mùa hè làm gì còn hoa mai nở, chỉ có Hồ Phi Mai khóc tiễn đưa người tình Mai Sơn Phủ về quê hương. Về Vinh lúa thơm vàng mùa thu. Vời ngóng non cao cây lớp lớp. Hứng thơ trên cánh buồm lướt ven bờ biển. Thôi hẹn bạn ngày quay lại Thăng Long cùng rong chơi quanh hồ Hoàn Kiếm hóng gió mát trên tay áo rộng.
Gậy trúc ngày hè xa cố đô,
Giang Nam thương nhớ bóng xa mờ.
Hoàng giang mưa điểm hương mai nở,
Vịnh phố rực vàng thơm lúa thu.
Vời ngóng non cao cây lớp lớp,
Hứng về biển thẳm cánh buồm mơ.
Người đi hẹn ước ngày quay lại,
Tay áo thung thăng gió Kiếm Hồ.

Thơ chữ Hán Phạm Đình Hổ
Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

Hạ nhật huề cùng xuất cố đô,
Giang Nam nam hạ tứ du du.
Sơ mai hương đậu Hoàng Giang vũ.
Dã mạch tình thâm Vịnh phố thu.
Vọng nhập tiền sơn khan võng thụ,
Hứng tùy thương hải phiếm hư chu.
Lâm kỳ ước lược quy lai nhật.
Mãn thụ thanh phong phản Kiếm hồ.

Giang Nam: Dữu Tín người đời Tống Nam Bắc Triều làm quan xa làm quan xa lâu ngày không về nhà có làm bài Ai Giang Nam Phú tỏ lòng thương nhớ quê hương. Từ đó chữ Giang Nam có nghĩa là lòng nhớ quê hương.
Theo tôi, Mai Sơn Phủ hay Mai Công là bạn Phạm Đình Hổ cũng là người tình của Hồ Xuân Hương, trong Lưu Hương Ký còn lưu lại những bài thơ tình nồng nàn thắm thiết., hai người đã cắt tóc, trích máu vào chén rượu thề sinh tử có nhau.. Phạm Đình Hổ và Xuân Hương Hồ Phi Mai cùng tiễn Mai Sơn Phủ nơi bến sông Vị Hoàng (Nam Định ngày nay.) vào khoảng năm 1801, Mai Sơn Phủ về quê cậy cha mẹ hỏi cưới Xuân Hương. Nhưng rồi chàng biệt tăm trong cơn tao loạn cuối đời Tây Sơn.
Bài Vô Đề : Phạm Đình Hổ trêu Xuân Hương khi nàng được mẹ gả cho anh thầy lang xóm Tây làng Nghi Tàm, nhưng Chiêu Hổ cũng xót xa lắm vì chàng cũng thầm yêu Xuân Hương. Bài thơ Vô Đề viết cho một tình yêu sâu kín: Yêu nàng từ thuở 12, 13 và mười năm sau nàng đã lấy chồng. Yêu nàng từng say đắm với bàn tay gảy đàn, bàn tay làm thơ, bàn tay quét hoa mai rụng. Tình yêu không nói, ngày tháng trôi qua hai mươi xuân. Yêu vẻ đẹp nàng mà tiếc hoa, tiếc mộng. Tiếc không hẹn trăng với nàng từ thuở nàng biết yêu. Lòng hận như chim tinh vệ ngậm đá lấp biển. Tình như hương cỏ, chỉ biết hỏi trời. Bên bóng mát Hồ Tây xuân tàn lặng lẽ, ngoài song con chim cuốc nhảy một mình.Bài thơ thật là một tuyệt tác nói về tình yêu câm nín, say đắm, say mê, nhưng không nói ra. Câu minh cưu hữu hận nan điền hải, chim kêu lòng hận lấp bằng biển thật là cực mạnh, tình hận vô vọng như chim tinh vệ ngày ngày gắp từng viên đá sỏi để lấp biển. Vì sao không nói, vì sao không ngỏ lời với nàng, không cậy mẹ đến hỏi cưới nàng để Nguyễn Du, để anh thầy Lang, để Mai Sơn Phủ phỏng tay trên ? Ôi thôi tình duyên như hương cỏ chỉ biết hỏi trời. Có phải vì ta không yêu nàng nên nàng lận đận, đời ta như con cuốc « ngoại cuộc » nhảy một mình .
Yêu kiều bao nỗi đắm tay tiên,
Lặng lẽ phòng khuê hai mươi xuân.
Nét đẹp lạnh từng hoa tiếc mộng,
Hẹn trăng từ thuở nguyệt chia tình.
Chim kêu lòng hận lấp bằng biển,
Hương cỏ duyên gì biết vấn thiên;
Bóng mát hồ xuân tàn lặng lẽ,
Ngoài song cuốc nhảy một mình riêng.

Thơ chữ Hán Phạm Đình Hổ,
Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

Vô Đề

Kinh doanh bất sổ chưởng trung tiên,
Tỉnh tỏa thâm khuê nhị thập niên.
Lãnh điểm tằng kinh hoa tích mị,
U nhàn vị hứa nguyệt phân nghiên.
Minh cưu hữu hận nan điền hải,
Phương thảo vô duyên chỉ vấn thiên.
Hồ thượng âm tàn xuân tịch mịch,
Cách song tiểu đổ độc sàn nhiên.

GIAI THOẠI XƯỚNG HỌA XUÂN HƯƠNG VÀ CHIÊU HỔ

Có ý kiến cho rằng Chiêu Hổ không thể là Phạm Đình Hổ vì nhiều lý do :
Phong cách hai người rất khác xa. Chiêu Hổ tính tình phóng túng, tai quái, ưa bởn cợt, khi xướng họa với Chiêu Hổ thường dùng chữ Nôm. Phạm Đình Hổ tính tình nghiêm cẩn đến câu nệ, lại có ý khinh chữ Nôm. Bài « Tự thuật » trong Vũ Trung Tùy Bút tr 18, ông viết:
« Có người đem những sách truyện Nôm và những trò thanh sắc, nghề cờ bạc rủ rê chơi đùa thì ta bịt tai lai không muốn nghe. Ta đã học vỡ được ít kinh sử, thế mà chữ Nôm ta không biết hết.».
Lý do này theo tôi không vững, vì có người chỉ bộc lộ tình cảm mình qua văn viết, qua sách vở, đứng đắng, nghiêm chỉnh, nhưng bề ngoài thì nhút nhát, nên chỉ biểu lộ tâm tư mình bằng cách chọc phá, đùa bởn. Khác với Tốn Phong ăn nói lưu loát, dáng đi thơn thớt, điệu đàng, tán gái rất giỏi., nhưng vì điệu đàng quá nên đối tượng nghi ngờ là thiếu thành thật. Phạm Đình Hổ không biết « tán gái », bài Vô Đề biểu lộ nỗi lòng không nói của Phạm Đình Hổ, yêu nhưng không nói được nhìn bạn bè « cuổm tay trên » mất người đẹp, còn mình chỉ là người bạn chân tình.
Bài Nguyễn Nghiêu Minh trong Vũ Trung Tùy Bút tr 78. Phạm Đình Hổ cũng đã từng ứng khẩu đọc bốn câu tứ tuyệt khi thấy cháu gái con bạn chạy te te múc nước tưới hoa cúc.
Tựa hiên bảo trẻ chia nòi cúc,
Vốn cách sinh nhai cụ huyện già.
Khen lũ trẻ thơ hay biết ý,
Quanh thềm tưới nước học trồng hoa.
Phạm Đình Hổ không làm quan huyện mà làm ở Viện Hàn Lâm và ở Quốc Tử Giám chức vị Tế Tửu, tương đương với Hiệu trưởng, trong thơ truyền khẩu gọi Chiêu Hổ là quan Huyện, vì người bình dân chỉ biết có quan Huyện, thấy ai cũng gọi là quan Huyện, không biết chức tước nào khác.
Văn Tân, Trần Thanh Mại và hầu hết các nhà nghiên cứu Hồ Xuân Hương đều cho rằng Chiêu Hổ chính là Phạm Đình Hổ.
Nguyễn Triệu Luật trong Ngược đường trường thi.( Hà Nội Tân Dân. 1939 Bốn Phương tái bản 1957 tr 104) viết rằng Chiêu Hổ tức Phạm Đình Hổ, cùng với Nguyễn Án hiệu Kính Phủ và Xuân Hương được người đương thời gọi là ' Tam tài tử'.
Qua số thơ truyền khẩu do Lê Quý chép trên văn bản Antony Landes năm 1892, tôi xắp xếp thời điểm đối đáp giữa hai người như sau :
Khoảng năm 1797-1799 Phạm Đình Hổ thường đến thăm Xuân Hương, sau đó đi vãn cảnh chùa Kim Liên. Trong Xuân Hương thi, phần A:
« Hồ Xuân Hương là con gái biết chữ, hay văn. Ở trước nhà có đề : Cổ Nguyệt Đường. Có quan Huyện qua thấy đề như vậy bèn vịnh:
Nhà Cổ hãy còn đeo đẳng Nguyệt,
Buồng Xuân chi để lạnh lùng Hương.
Xuân Hương thấy vậy, ra xin quan huyện đề thơ, hẹn lấy vần hòi trừ chữ hẹp hòi.. Quan huyện ngâm:
Một hồi lều cỏ đã làm rồi,
Nhác thấy cô bay muốn thẩm hòi.
Xuân Hương nghe thẹn bèn bỏ đi. »
Phần C bản Landes chép bài Mắng người say rượu:
Vẫn giả tỉnh, vẫn giả say,
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày ?
Này này chị bảo cho mà biết,
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay.
Người con trai trả lời:
Nào ai tỉnh, nào ai say,
Nào ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày ?
Hang hùm ví bẳng không ai mó,
Sao có hùm con bỗng trốc tay ?
Đây là văn bản cổ nhất chép bài này không gọi là thơ Chiêu Hổ mà là thơ Mắng người say rượu., các văn bản về sau dựa vào chữ hùm, hùm con nên cho rằng thơ Chiêu Hổ.
Bài 20 văn bản Landes phần C đề tựa Con trai ghẹo Xuân Hương. Lúc mới quen Chiêu Hổ còn ngại ngùng, Xuân Hương đùa:
Những bấy lâu nay luống nhắn nhe,
Nhắn nhe toan những sự gùm ghè,
Gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám,
Chưa dám cho nên phải rụt rè.
Chiêu Hổ cà thẹn nổi máu nóng anh hùng phản công liều lĩnh:
Hỡi hỡi cô bay tớ bảo nhe,
Bảo nhe không được gậy ông ghè !
Ông ghè không được ông ghè mãi,
Ghè mãi rồi lâu cũng phải rè !
Ta thấy Chiêu Hổ mất bình tỉnh, lời thơ hồ đồ, nóng nảy. Tuy nhiên chúng ta thấy hai người đừa bởn rất thân tình.
Năm 1804 sau khi thôi Tổng Cóc, Hồ Xuân Hương vay tiền Chiêu Hổ để mở hiệu sách ở Phố Nam gần đền Lý Quốc Sư, Xuân Hương vay năm quan tiền. Chiêu Hổ cho mượn có ba, Xuân Hương trách:
Sao nói rằng năm lại có ba ?
Trách người quân tử hẹn sai ra,
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt,
Nhờ hái cho xin nắm lá đa.
Chiêu Hổ đáp:
Rằng gián thì năm, quí có ba,
Bởi người thục nữ tính không ra.
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt,
Cho cả cành đa lẫn củ đa.
Xuân Hương trách Chiêu Hổ là Cuội, nói dối như Cuội ngồi gốc cây đa trên mặt trăng, có lẽ Chiêu Hổ cũng không giàu có lắm, nên mưôn chuyện tiền quí với tiền gián mà trả lời. Ngày xưa một quan có mười tiền, tiền gián có 36 đồng, một quan bằng 360 đồng, do đó 5 quan bằng 1800 đồng. Tiền quí có 60 đồng; do đó 3 quan tiền quí bằng 60 X 3 = 1800 đồng. Xuân Hương tưởng mượn Chiêu Hổ tiền quí, nhưng Chiêu Hổ cho mượn tiền gian, trách Xuân Hương dốt toán tính khônng ra.
Năm 1821, Phạm Đình Hổ dâng sách được vua Minh Mạng vời ra: Ông được bổ làm Hành Tẩu Viện Hàn Lâm. Xuân Hương năm ấy chồng Tham Hiệp Trần Phúc Hiển bị tử hình, trở về Cổ Nguyệt Đường, hay tin đã làm câu đối mừng Chiêu Hổ với lời đùa nhẹ nhàng:
Mặc áo Giáp, dãi cài chữ Đinh, Mậu Kỷ Canh khoe mình rằng Quý.
Lấy những chữ trong thập can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Ý Xuân Hương muốn chế diễu Chiêu Hổ chỉ đỗ Tú Tài, nhờ dâng sách mà được làm quan nay mặc áo đẹp ra vẻ ta đây.
Chiêu Hổ nổi nóng, đối đáp bằng lời mắng nặng nề :
Làm đĩ Càn, tai đeo hạt Khảm, Tốn Ly Đoài khéo nói rằng Khôn.
Lấy những chữ trong bát quái: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn , Ly, Khôn, Đoài. Ý mắng Xuân Hương là 'con đi càn dỡ lại còn tự phụ, cho mình khôn'. Những lời mắng nặng nề ấy có lẽ chấm dứt mối liên hệ giữa Xuân Hương và Chiêu Hổ.
Vì thế trong toàn bộ tác phẩm của mình Chiêu Hổ nhắc đến tên những nhân vật thời đại nhưng ông tránh nhắc tên Xuân Hương, ngay cả những bài thơ ông viết cho Xuân Hương. Và Xuân Hương chết năm 1822 trước ông 17 năm, ông cũng không viết cho được một bài thơ, bài phú phúng điếu.
Các bài thơ nôm này chỉ là giai thoại, vì so với trình độ thơ chữ Hán nó kém cỏi, thơ ứng khẩu đùa vui, trình độ chỉ hơn vè một chút, không nên xem là tác phẩm văn học.

TS PHẠM TRỌNG CHÁNH
Paris 2000-2012

No comments:

Post a Comment