Thursday, November 28, 2013

Khúc Nguyệt Cầm


http://youtu.be/_hyAOYMUVDs

Marcel Proust (1871-1922)

 

KHÚC NGUYỆT CẦM *

 

1

 

Hơn cả những cơn mệt dọc đường, ký ức và mối lo ngại về những sự khó tính của cha tôi, sự lãnh đạm của Pia,[1] sự hung hăng của những kẻ thù tôi đã làm tôi kiệt sức. Ban ngày, bên cạnh Assunta,[2] tiếng hát của nàng, sự dịu dàng của nàng đối với tôi mà ít khi nàng có được, vẻ đẹp của nàng màu trắng, màu nâu và màu hồng, mùi thơm còn giữ lại trong từng cơn gió biển, cái lông cắn trên nón nàng, những hạt trai trên cổ nàng đã làm tôi khuây nguôi. Nhưng, vào khoảng chín giờ tối, tôi cảm thấy nặng nề khó chịu, tôi bảo nàng lấy xe trở về và để tôi ở lại nghỉ ngơi ngoài trời một tí. Lúc đó chúng tôi đã tới gần Honfleur; chọn nơi này thật là tốt, sát bên một bức tường, ngay chỗ đi vào hai con đường lớn có những cây cao chắn gió, không khí thật êm dịu; nàng bằng lòng và bỏ tôi lại đó. Tôi nằm dài trên bãi cỏ, mặt hướng lên bầu trời tối; được ru ngủ bởi tiếng sóng của biển khơi mà tôi nghe phía sau tôi nhưng không trông rõ được trong đêm tối. Chẳng mấy chốc tôi đã ngủ thiếp đi.

Liền đó tôi mơ thấy trước mặt tôi bóng mặt trời lặn đang chiếu sáng bãi cát và mặt biển ở phía xa. Hoàng hôn phủ xuống, và tôi thấy dường như đó là một buổi mặt trời lặn và một buổi hoàng hôn như tất cả những buổi hoàng hôn và tất cả những buổi mặt trời lặn khác. Nhưng bấy giờ có người đem đến cho tôi một lá thư, tôi muốn mở ra đọc mà không trông rõ được gì hết. Chỉ lúc đó tôi mới chợt thấy rằng dù ánh sáng in xuống chói chang và tỏa rộng, trời vẫn rất tối đen. Ánh mặt trời lặn hôm đó mờ nhạt một cách lạ lùng, chói lọi mà không có ánh sáng, và trên bãi cát được chiếu rõ một cách thần diệu có tụ lại nhiều bóng tối đến nỗi tôi cần phải làm một cố gắng khó nhọc mới nhận ra được một vỏ ốc. Trong cảnh hoàng hôn đặc biệt cho những giấc mộng này, thật giống như một buổi mặt trời lặn bệnh hoạn và nhạt màu trên một bãi cát gần bắc cực. Những nỗi buồn khổ của tôi đột nhiên tan biến; những quyết định của cha tôi, những tình cảm của Pia, ác ý của những kẻ thù tôi vẫn còn chế ngự tôi, nhưng không còn áp đảo tôi, như một sự cần thiết tự nhiên và đã không còn quan hệ. Sự mâu thuẫn của cái rực rỡ tối mù đó, phép mầu nhiệm trong giây phút thần diệu làm ngưng những nỗi đau đớn của tôikhông gợi nơi tôi một mối nghi ngờ nào, một nỗi sợ hãi nào cả, mà trái lại tôi như được vây phủ, tôi đẫm mình, chìm đắm trong một sự dịu dàng đang tăng dần mà nỗi vui sướng dạt dào rốt cuộc đã đánh thức tôi dậy. Tôi mở mắt ra. Rực rỡ và xanh xao, giấc mộng của tôi trải rộng ra quanh tôi. Bức tường mà tôi đã dựa lưng vào để ngủ đầy dẫy cả ánh sáng, và bóng cây trường xuân in dài trên tường cũng rõ ràng như vào lúc bốn giờ chiều. Đám lá của một cây bạch dương Hòa lan lóng lánh xoay chiều theo một làn gió nhẹ. Người ta thấy những làn sóng và những cánh buồm trắng trên mặt biển, bầu trời trong sáng, trăng đã lên. Thỉnh thoảng, những đám mây nhẹ bay qua mặt trăng, nhưng những đám mây lúc đó nhuộm đủ các sắc xanh rất nhạt tựa như màu một con sứa đông lạnh hay như trong lòng một viên đá mắt mèo. Tuy nhiên ánh sáng lúc đó đang chiếu rõ khắp nơi, mắt tôi không thấy được nó ở đâu cả. Ngay trên mặt cỏ, lúc đó đang rực rỡ trông như ảo ảnh, bóng tối cũng vẫn còn giữ lại. Những khu rừng chung quanh và một đường rãnh hoàn toàn tối đen. Đột nhiên, một tiếng động nhẹ thức dậy ngân dài như một mối lo âu, vang lớn rất nhanh, nghe như chạy dài trong cánh rừng. Đó là tiếng lá run rẩy xào xạc theo cơn gió nhẹ. Tôi nghe từng chiếc lá dồn dập nổi dậy như những cơn sóng trong cái im vắng mênh mông của đêm đen dày đặc. Rồi tiếng động đó lại giảm dần và tắt hẳn. Cả một dòng ánh sáng nằm giữa hai bờ bóng đêm tựa như con sông chảy trên cánh đồng cỏ hẹp trải dài trước mặt tôi giữa hai lối đi lớn đầy đặc những cây sồi. Trong khi chiếu rõ ngôi nhà gác, những đám lá, một cánh buồm đang chìm đắm trong đêm tối, ánh sáng trăng đã không đánh thức chúng dậy. Trong cái yên lặng như ngủ thiếp đó, mặt trăng chỉ soi rõ cái hình bóng mơ hồ huyễn hoặc của chúng, và làm ta không thể thấy rõ được những đường nét mà đối với tôi ban ngày thật hiển hiện, những đường nét bắt buộc tô phải tin chắc sự hiện diện của chúng, và sự có mặt tầm thường của chúng mãi mãi bên tôi. Ngôi nhà không cửa, đám lá không cây, gần như cũng không có một chiếc lá nào, cánh buồm không thuyền, thay vì là một thực tại không thể nào chối cãi được và là một thực tại thường xuyên vô vị, lại có vẻ như một giấc mơ kỳ lạ, chơi vơi và rực rỡ của những cây cối buồn ngủ đang đắm chìm trong bóng tối. Thật thế, những khu rừng chưa bao giờ ngủ say sưa như vậy, người ta cảm thấy là mặt trăng đã thừa dịp để lẳng lặng hoàn thành cuộc lễ vĩ đại xanh xao và dịu dàng này trên bầu trời và trên biển cả. Nỗi buồn của tôi đã biến mất. Tôi nghe cha tôi đang mắng tôi, nghe Pia chế giễu tôi, nghe những kẻ thù tôi đang âm mưu và chẳng có gì trong những thứ đó đối với tôi là thực cả. Cái thực tại duy nhất đã nằm trong luồng ánh sáng phi thực này, và tôi cầu khẩn nó mà vừa mỉm cười. Tôi không hiểu được sự giống nhau huyền bí nào đã kết liền những nỗi đau đớn của tôi với những sự huyền bí trang nghiêm đang hành lễ trong những khu rừng chung quanh, trên bầu trời và trên mặt biển, nhưng tôi cảm thấy rằng những nỗi đau đớn đó đã đọc lên những lời giải thích, an ủi và dung thứ, và dù trí óc tôi không hiểu được niềm bí ẩn cũng chẳng có gì quan trọng, bởi vì tim tôi đã nghe thấy quá rõ. Tôi gọi tên đêm tối là mẹ thánh tôi, nỗi buồn của tôi đã nhận mặt trăng là người chị bất diệt của nó, mặt trăng chiếu sáng trên những niềm đau biến hình của đêm tối và trong tim tôi, trong đó những đám mây đã tan dần, và nỗi buồn mênh mang dâng lên.

 

2

 

Rồi tôi nghe tiếng chân bước. Assunta đi về phía tôi, khuôn mặt trắng của nàng nổi lên trên một chiếc áo choàng rộng màu sẫm. Nàng nói với tôi giọng hơi nhỏ: "Em sợ anh bị lạnh, thằng em của em đã lên giường rồi, em trở lại đây." Tôi tiến lại gần nàng; tôi rùng mình, nàng kéo áo choàng khoác cho tôi và để giữ lại tà áo, nàng choàng tay qua cổ tôi. Chúng tôi bước vài bước dưới bóng cây, trong bóng đêm sâu thẳm. Một vật gì chiếu sáng trước mặt chúng tôi, tôi không kịp lùi lại và tưởng rằng chúng tôi vấp phải một thân cây, tôi đi lệch sang một bên đường, nhưng chướng ngại vật biến mất dưới bước chân chúng tôi, thì ra chúng tôi đã bước đi trên một mảnh trăng. Tôi áp đầu nàng vào sát đầu tôi. Nàng mỉm cười, tôi bèn khóc, và tôi thấy nàng cũng khóc nữa. Đến đó thì chúng tôi hiểu được rằng mặt trăng đang khóc và nỗi buồn của nó cũng hòa âm với nỗi buồn của chúng tôi. Những luồng ánh sáng dồn dập rực rỡ và êm dịu của nó đi vào đến tận tim chúng tôi. Như chúng tôi, mặt trăng cũng khóc, và cũng gần luôn luôn như chúng tôi, nó khóc mà không biết tại sao, nhưng lại cảm thấy mình khóc một cách mùi mẫn đến nỗi nó kéo theo trong nỗi thất vọng dịu dàng không làm sao ngăn được của nó những khu rừng, những cánh đồng, và cả bầu trời lúc này lại soi xuống mặt biển, và luôn cả tim tôi cuối cùng trong tim trăng đã nhìn thấy rõ.

 

 

NHƯ DƯỚI ÁNH TRĂNG *

 

Đêm đã đến, tôi vào phòng ngủ, trong lòng âu lo vì giờ đây phải nằm trong bóng tối, không còn trông thấy được bầu trời, những cánh đồng và biển khơi lấp lánh dưới ánh nắng. Nhưng khi tôi mở cửa, tôi thấy cả căn phòng toả rực áng sáng như trong buổi hoàng hôn. Qua cửa sổ tôi trông thấy ngôi nhà, những cánh đồng, bầu trời và biển cả, hay đúng hơn những thứ đó tôi như "thấy lại trong giấc mơ"; mặt trăng êm dịu đã nhắc tôi nhớ đến chúng chứ không phải đã cho tôi thấy chúng, trong khi trăng tỏa rộng trên hình dạng chúng một thứ ánh sáng nhạt màu không làm tan mất bóng đêm, bóng đêm lúc đó dày đặc như một mối quên lãng trên hình thể những cảnh tượng đó. Và tôi đã ngồi hàng giờ nhìn trong sân nhà cái kỷ niệm câm lặng, mơ hồ, tươi vui và đã mờ phai của những sự vật vào buổi ban ngày đã làm tôi vui sướng hay khổ đau, với những tiếng thét của chúng, những giọng nói của chúng hay tiếng lao xao âm ỉ của chúng.

Tình yêu đã tắt, tôi lo sợ trên ngưỡng cửa quên lãng; nhưng rồi cũng lắng dịu, hơi mờ nhạt, gần kề bên tôi mà lại cũng xa xôi và mơ hồ, tựa như dưới ánh trăng, tất cả những niềm hạnh phúc đã qua và những mối đau buồn đã được khuây nguôi của tôi nay lại nhìn tôi và nín lặng. Cái im lặng của những vui buồn đó làm tôi xúc động tuy nó xa cách và phai nhạt như vậy làm tôi cảm thấy một nỗi ngất ngây buồn bã mà thi vị. Và tôi không thể nào không nhìn mãi ánh trăng kia trong lòng tôi.[3]

 

 

----------------------
* Hai đoản văn "Khúc nguyệt cầm" (đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn số 85 ở Saigon, 1967, số đặc biệt về Marcel Proust) và "Như dưới ánh trăng" được dịch từ nguyên tác "Sonate Clair de lune" và "Comme à la lumière de la lune" trong Marcel Proust, Les Plaisirs et les Jours, Nxb. la Nouvelle Revue française, Paris, 1924. Có nhiều liên tưởng có thể nêu ra đây:
 
1. Ngày 16 tháng 9 năm 1894, từ Trouville, Proust viết cho người bạn nhạc sĩ của mình là Reynaldo Hahn, cũng là người có bốn khúc nhạc cho dương cầm được in chung trong ấn bản Les Plaisirs et les Jours đầu tiên (1896): "Trời lúc này rất đẹp, có những ánh trăng mà anh sẽ được đọc một diễn giải theo cách anh... " (Il fait un temps charmant, des clairs de lune dont vous lirez une interprétation selon vous... ) Chắc hẳn Proust muốn ám chỉ đến hai bản văn "Khúc nguyệt cầm" ("Sonate Clair de lune") và "Như dưới ánh trăng" ("Comme à la lumière de la lune"). Đây là hai trong nhiều đoản văn đẹp trong Les Plaisirs et les Jours.
 
2. "Ánh trăng" cũng là nhan đề phổ thông của bản Sonate pour piano en do dièse mineur op. 27 no. 2 [Sonata quasi una fantasia] (1801) của L.W. Beethoven. Có liên hệ gì chăng khi sau này trong Un amour de Swann, Proust gợi lại chương trình một buổi tối ở Chatou, Biche tuyên bố "không được có một chút ánh sáng nào và mình [nhạc sĩ dương cầm] chơi bản sonate Clair de lune trong bóng tối để có thể thấy rõ hơn mọi vật toả sáng như thế nào"?

_________________________

[1]Tất cả những tên người trong Les Plaisirs et les Jours đều mang vẻ ngoại lai và xưa, thường gợi những vùng đất ở Trung Âu, vùng Balkan, Ý, hoặc dẫn từ văn học. Pia/Pie và Assunta/Assomption là những tên Ý. Trong tranh ảnh Ki tô giáo, hình tượng Đức bà Đồng trinh Quy thiên (Assomption) thường được mô tả trong tư thế đứng trên một mặt trăng lưỡi liềm.

[2]Như chú thích 1.

[3]Câu kết của đoản văn này là tiếng dội của tên một đoản văn khác, "Coucher de soleil intérieur", trong Les Plaisirs et les Jours.



Tản văn của Marcel Proust

MARCEL PROUST

(1871-1922)

 

"Tuileries" là bài đầu tiên trong số 30 đoản văn (cũng có thể gọi là "thơ văn xuôi") mang tựa đề chung "Những giấc mơ màu thời gian" (Rêveries couleur du temps) để dưới một tựa đề chung khác là "Những luyến tiếc" (Les regrets) trongLes Plaisirs et les Jours (Thú vui và Ngày tháng), tuyển tập đầu tay của Proust được ấn hành. Nhà thơ Hoàng Ngọc Biên — dịch giả Proust đầu tiên của Việt Nam — đã chuyển ngữ được nhiều bài trong tuyển tập này.
 
Như tựa đề Đi tìm thời gian đã mất, nói chung, và "Những giấc mơ mang màu thời gian" nói riêng, cho thấy, thời gian đã là nỗi ám ảnh trọn đời của Proust. Khác với loài vật, con người luôn luôn ý thức về hiện tại, quá khứ và tương lai, nghĩa là ý thức về thời gian. Bởi vì thời gian ảnh hưởng tới con người và tạo vật. Qua lăng kính của thời gian mọi hình ảnh sẽ khác hẳn. Thời gian thay đổi và tiêu diệt tất cả, tình yêu, hạnh phúc, vân vân, thậm chí nó cũng có thể huỷ diệt luôn cả những kỷ niệm và ký ức, và cách duy nhất để tồn tại, theo Proust, là đi tìm thời gian đã mất — không phải với "trí nhớ tự ý" xuất phát từ lý trí và sự hồi tưởng máy móc (mémoire volontaire) chỉ có thể mang về cho ta những mẩu quá khứ chết khô, nhạt nhẽo, mà phải bằng "trí nhớ không chủ ý" do cảm xúc và mùi vị (mémoire involontaire) có thể làm sống lại quá khứ tinh khôi và trọn vẹn, mà Proust đã kể ra hai thí dụ (chiếc bánh madeleine nhúng vào tách nước trà trong một ngày mùa đông ở Paris và bước chân khập khễnh của người kể chuyện trên những lát đá không đồng đều nhau trong sân nhà Guermantes) đã hồi sinh toà "lâu đài mênh mông của kỷ niệm" — dùng trí nhớ không chủ ý mà đi tìm thời gian đã mất, để sống lại trọn cuộc đời mình một lần thứ hai trong một tác phẩm văn chương, và tồn tại, nếu không vĩnh viễn thì cũng có thể lâu dài hơn, cho tới khi chính nó cũng bị thời gian tàn phá.
 
Nguyễn Đăng Thường

 

_____________

 

VƯỜN TUILERIES [**]

 

Sáng nay trong vườn Tuileries mặt trời tuần tự thiếp ngủ trên các bậc thang đá như một gã thiếu niên tóc vàng mà một chiếc bóng lướt qua làm gián đoạn tức khắc giấc ngủ nhẹ nhàng. Các chồi xanh đối nghịch toà dinh thự cổ. Hơi thở của gió ngất ngây pha trộn hương hoa đinh[***] với mùi của quá khứ. Các pho tượng nơi công trường thường khiến cho mọi người khiếp sợ như khi gặp một mụ điên, ở đây đang mơ mơ màng màng trong những khóm cây như những nhà hiền triết dưới vòm lá xanh ngời che chở màu trắng của chúng. Các bể nước có trời xanh nằm nghỉ dưới đáy long lanh như những ánh mắt. Từ trên sân thượng cạnh bờ nước người ta có thể nhìn thấy, từ cái xóm cũ trên bến Orsay bên kia bờ, một người lính kỵ binh như từ một thế kỷ khác bước ra. Dây leo tràn ra ngoài các chậu phong lữ.[***] Say nắng, hoa hướng nhật[***] tự thiêu đốt mùi hương. Trước điện Louvres các nhánh tường vi thoai thoải phóng mình lâng lâng tựa những cột buồm quý phái và duyên dáng ửng hồng đôi má thiếu nữ. Óng ả và si tình các vòi nước túa nước lên không trung. Ở cuối sân thượng, một chàng kỵ mã bằng đá dong dỏng cao phi ngựa tại chỗ, cặp môi dán chặt vào chiếc kèn nhạc vui, thể hiện nhiệt tình của Mùa Xuân. Nhưng bầu trời bỗng tối sầm, trời sắp mưa. Các hồ nước, không còn óng ánh màu xanh của trời, trông chẳng khác gì những cặp mắt trống vắng cái nhìn hay những chiếc bình đầy nước mắt. Cái vòi nước phi lý, bị gió quất mạnh, càng lúc càng nhanh tung lên trời tiếng hát bỗng như giễu cợt. Sự êm dịu vô ích của hoa đinh là một nỗi buồn man mác. Và ở đằng kia, đôi chân bằng đá cẩm thạch kích thích bởi sự chuyển động tĩnh và cuồng trong cuộc phi nước đại tại chỗ đến chóng mặt, chàng kỵ mã vô ý thức vút mãi tiếng kèn không thôi trên nền trời đen tối.

 

------------
Nguồn: Marcel Proust, Les Plaisirs et les Jours (Paris: Gallimard, 1993).

 

_________________________

Ghi chú của người dịch:

[*]Trong nước mới đây có thêm một bản dịch Proust với tựa đề Đi tìm thời gian đã mất, chưa rõ của dịch giả nào. Nếu người dịch chuyển ngữ được hết trọn bộ bảy cuốn thì hay lắm, vì mỗi cuốn dày cộm mang tựa đề riêng dưới cái tên chung Đi tìm thời gian đã mất. Hy vọng bản dịch ấy có được sự trung thực khá cao, không cắt tỉa văn bản tuỳ nghi và cắt khúc quá nhiều các câu văn dài của Proust, thể hiện sự liên tục của lối kể chuyện gần như độc thoại nội tâm và dòng thời gian cuồn cuộn.

[*]Vườn Tuileries (Le jardin des Tuileries gọi tắt "Les Tuileries") là một công viên lớn ở ngay trung tâm Paris, bên bờ sông Seine (hữu ngạn), khởi xây theo lệnh (1553) của hoàng hậu Catherine de Médicis vợ vua Henri II, tại vị trí một lò ngói cũ (les tuileries) ở thế kỷ 16 và được tiếp tục mở mang hoàn chỉnh thêm ở các thế kỷ tiếp nối. Cổng sau của công viên ăn thông qua vườn Carousel, nhỏ hơn, và điện Louvres. Cổng trước mở ra quảng trường Concorde và đại lộ Champs Élysées thẳng tắp tới Khải Hoàn Môn (Arc de Triomphe) do Nã Phá Luân ra lệnh (1806) xây cất để ghi chiến công hiển hách sau trận Austerlitz, đại thắng hai đồng minh Áo-Nga, bị gián đoạn dưới thời kỳ khôi phục chế độ quân chủ (Restauration), và chỉ được hoàn tất (1833-36) dưới triều vua Louis Philippe; về sau có đặt thêm mồ chiến sĩ vô danh. Catherine de Médicis (1519-1589) thuộc dòng họ Médicis giàu có và danh tiếng ở Florence (Ý) đã bảo trợ các nhà danh họa Michelangelo, Botticelli... Catherine de Médicis đã văn minh hoá nước Pháp với kiến trúc Ý và thức ăn Ý, trong đó có món kem đã được người Pháp nhập khẩu vào Việt Nam trong thời thuộc địa.

[***]Lilas: hoa đinh. Géranium: hoa phong lữ. Héliotrope: hoa hướng nhật.