Saturday, July 27, 2013

Mặt trời của tôi - O Sole Mio qua các giọng ca Robertino, Il Volo, Three Tenor



http://youtu.be/ERD4CbBDNI0


Neapolitan lyrics[2][3][4]
Che bella cosa è na jurnata ’e sole,
n’aria serena doppo na tempesta!
Pe’ ll’aria fresca para già na festa...
Che bella cosa na jurnata ’e sole.
Ma n’atu sole cchiù bello, oi ne’,
’o sole mio sta nfronte a te!
’o sole, ’o sole mio, sta nfronte a te,
sta nfronte a te!
Quanno fa notte e ’o sole se ne scenne,
me vane quasi ’na malincunia;
sotta ’a fenesta toia restarria
quanno fa notte e ’o sole se ne scenne.
Ma n’atu sole cchiù bello, oi ne’,
’o sole mio sta nfronte a te!
’o sole, ’o sole mio, sta nfronte a te,
sta nfronte a te!
English translation
What a beautiful thing is a sunny day!
The air is serene after a storm,
The air is so fresh that it already feels like a celebration.
What a beautiful thing is a sunny day!
But another sun that's brighter still,
It's my own sun that's upon your face!
The sun, my own sun, it's upon your face!
It's upon your face!
When night comes and the sun has gone down,
I almost start feeling melancholy;
I'd stay below your window
When night comes and the sun has gone down.
But another sun that's brighter still,
It's my own sun that's upon your face!
The sun, my own sun, it's upon your face!
It's upon your face!



Sent from my iPad

Saturday, July 20, 2013

Nhạc sỹ tiền chiến Cuba Osvaldo Farres


Âm nhạc tựa như hương hoa, ẩn chứa những cảm xúc vô hình, tiềm tàng kỷ niệm mông lung khó tả. Mùi hương say đắm như ánh mắt, quyến luyến những vòng tay để rồi lan tỏa những câu chuyện tình lãng mạn.Dù nẩy sinh trong khoảnh khắc tâm can nhưng mùi hương vẫn chắp cánh vượt thời gian, không sợ tuổi già năm tháng, mà lại suốt đời miên man.

Liên Khúc Quizás Quizás 2013
 
18/07/2013
 
 

Câu nói của tác giả Osvaldo Farrés, khi ông nói về bí quyết soạn nhạc của mình, đã trở nên bất hủ để đời, cũng như khá nhiều bản nhạc bolero mà ông đã sáng tác lúc sinh thời. Nhắc đến tác giả người Cuba Osvaldo Farrés (1902-1985), người yêu nhạc trên thế giới đều biết đến ca khúc Quizás Quizás do ông viết vào năm 1947.

Có nhiều nguồn ghi chép sai một chi tiết quan trọng khi cho rằng bài Quizás Quizás là một bản mambo nổi tiếng. Thật ra, theo ông Radamés Giró, người đã soạn quyển Tự điển Bách khoa về Âm nhạc Cuba (Diccionario Enciclopédico de la Música en Cuba), nguyên tác của bài Quizás Quizás được viết theo thể điệu bolero. Lúc sinh tiền, Osvaldo Farrés từng được mệnh danh là ông hoàng bolero, vì trong số hơn 300 ca khúc mà ông đã cống hiến cho đời, phần lớn là những tình khúc du dương ngọt ngào, muôn thuở dạt dào làn điệu bolero.

Sinh năm 1902 tại thị trấn Quemado de Guînes, thuộc tỉnh Las Villas, bây giờ được gọi là Villa Clara, Osvaldo Farrés từ thuở thiếu thời đã có năng khiếu hội họa. Ở trường lớp, cô giáo thấy Osvaldo có tài vẽ tranh nên mới khuyên cậu học trò lên thủ đô để tầm sư học đạo. Sau cấp trung học, ông cùng với gia đình dọn nhà về thủ đô La Havana.

Theo lời khuyên của bố mẹ, ông chủ yếu học vẽ để kiếm sống và tự học đàn trong những lúc nhàn rỗi. Trước khi nổi danh là một tác giả, Osvaldo Farrés thời thanh niên đã làm đủ mọi nghề để kiếm sống : đạp xe đi giao hàng, họa sĩ vẽ tranh phong cảnh, nhân viên quầy ngân hàng, thợ lắp ráp cửa sổ, thợ chế tạo lò xo trong các xưởng sản xuất ghế nệm. Cái nghề ổn định duy nhất gần với những gì ông đã học, là nghề vẽ bích chương cho một công ty quảng cáo.

Hồi tưởng lại giai đoạn này, Osvaldo Farrés nói rằng : Ông chưa bao giờ nghĩ tới chuyện trở thành một nhà soạn nhạc, huống chi tưởng tượng rằng một ngày nào đó, ông có thể hái ra tiền, có được một cuộc sống sung túc dư giả, chỉ nhờ thành công trong sự nghiệp sáng tác. Điều đó giải thích vì sao tác giả người Cuba này nổi danh trễ hơn so với các đồng nghiệp cùng trang lứa.

Vận may đến với Osvaldo Farrés vào năm 1937, lúc đó ông đã ngoài 35 tuổi. Vào thời ấy, một hiệu bia nổi tiếng cần một đoạn nhạc để làm quảng cáo trên đài phát thanh thủ đô. Người vẽ bích chương quảng cáo không ai nào khác ngoài Osvaldo Farrés, cho nên ông mới đề nghị công ty nhà sử dụng một khúc nhạc của ông để làm nhạc hiệu quảng cáo. Bản nhạc Mis Cinco Hijos, soạn theo nhịp điệu guajira, một thể loại dân ca miền đông Cuba, trở nên ăn khách nhờ được phát sóng nhiều lần trên đài phát thanh thủ đô.

Cũng từ đó mà cái tài soạn giai điệu của nhạc sĩ Osvaldo Farrés lọt vào tai của các nhà sản xuất. Từ đầu những năm 1940 trở đi, ông bắt đầu nổi danh nhờ sáng tác nhiều ca khúc cho giới nghệ sĩ tên tuổi. Tiêu biểu nhất cho giai đoạn này có bài Acércate Más, cũng là một bản nhạc nổi tiếng ở châu Mỹ La Tinh.

Sông có khúc, người có lúc. Năm 1943, tức cách đây đúng 70 năm, là thời điểm định mệnh của một sự nghiệp sáng tác. Vào thời đó, nhà soạn nhạc Osvaldo Farrés chấp bút viết bài Toda Una Vida (Trọn một đời người), một trong những bài kinh điển nhất của dòng nhạc bolero.

Theo nhà nghiên cứu âm nhạc Cristóbal Díaz Ayala, tuy Osvaldo Farrés không được đào tạo bài bản, không tinh thông nhạc lý, tức là ông không biết đọc và ghi chép nốt nhạc, nhưng ngược lại ông có một lỗ tai khác thường. Ông sáng tác bằng cách mò mẫm, ngân nga một giai điệu, để rồi thu vào máy ghi âm, nhờ người khác (thường là nhạc sĩ Fernando Mulens) có kiến thức âm nhạc, ghi chép lại từng nốt trên các bản dàn bè.

Osvaldo Farrés biến sở đoản thành sở trường : ca từ mộc mạc trong sáng thường được viết dưới dạng đối thoại trực tiếp, ông đặt mình vào tư thế của một người đàn ông tỏ tình vuốt ve, mơn trớn người yêu. Người khác sáng tác nhạc bolero bài bản cúng cụ. Osvaldo soạn ca khúc để đánh trúng tim đen người nghe. Ông nén từng câu, vuốt từng chữ như đang ôm ấp tình nhân. Cảm giác gần gũi càng hiệu quả khi người diễn đạt dùng cách hát thì thầm, thủ thỉ bên tai.

Nhờ vào sự thành công của nhạc phẩm Toda Una Vida (Trọn một đời người), mà Osvaldo Farrés trở thành tác giả độc quyền của đài phát thanh thủ đô La Havana thời bấy giờ. Từ phát thanh chuyển sang truyền hình, ông trở thành người điều khiển và dẫn dắt chương trình Bar Melódico de Osvaldo Farrés (hiểu theo nghĩa Quán nhạc du dương).

Chương trình này được phát sóng mỗi buổi tối thứ Tư hàng tuần, xen kẽ các tiết mục biểu diễn ca nhạc với các cuộc phỏng vấn giới văn nghệ sĩ trong nước cũng như ngoài nước. Trong vòng 13 năm liên tục, nhiều nghệ sĩ quốc tế tên tuổi như Josephine Baker, Sara Montiel, Nat King Cole hay Maurice Chevalier lần lượt trở thành khách mời của chương trình này.

Vào năm 1947, tác giả Osvaldo Farrés đạt đến đỉnh cao danh vọng với nhạc phẩm Quizás Quizás, cột mốc quan trọng thứ nhì trong sự nghiệp sáng tác của ông, sau nhạc phẩm Toda Una Vida. Bài hát chẳng những thành công ngay lập tức trong tiếng Tây Ban Nha mà còn thịnh hành nhờ phiên bản tiếng Anh Perhaps Perhaps Perhaps, do tác giả Joe Davis đặt lời.

Nếu như Nat King Cole thu bài này bằng tiếng Tây Ban Nha hát với giọng Mỹ, thì các ca sĩ quốc tế khác chủ yếu ghi âm bằng tiếng Anh : từ thế hệ trước như Dean Martin, Doris Day, Mari Wilson, Xavier Cugat, Mantovani, The Stargazers, Pepe Jaramillo cho đến thế hệ sau như Geri Halliwell, thành viên của nhóm Spice Girls hay Nicole Scherzinger của ban nhạc Pussycat Dolls.

Trong tiếng Pháp, tác giả Jacques Larue dùng cách chuyển ngữ tài tình, dịch thoát được cái ý mà vẫn giữ được sự gần giống trong âm điệu của ca từ. Bản nhạc Qui Sait Qui Sait hiểu theo nghĩa Nào Ai Hay Biết tuân thủ phiên âm nguyên thủy của Quizás Quizás (hiểu theo nghĩa Có lẽ, Có lẽ). Bài hát ban đầu do Luis Mariano ghi âm rồi sau đó ăn khách qua một loạt giọng hát như Maurice Chevalier, Henri Salvador, Dalida, Charles Aznavour hay Les Soeurs Étienne.

Còn trong tiếng Việt, bài có nhiều lời khác nhau. Lời Việt của nhạc phẩm mang tựa đề Sầu dĩ vãng là của tác giả Minh Trang. Còn lời Việt của bản nhạc Nào biết Nào hay, tùy theo nguồn ghi chép, lời hát được cho là của tác giả Minh Thảo hay của nhạc sĩ Phạm Duy, phóng tác từ lời caQui Sait, Qui Sait trong tiếng Pháp.

Với thời gian, bản nhạc Quizás Quizás chẳng những được chuyển dịch sang hàng chục thứ tiếng kể cả tiếng Hindi, Ả Rập hay Do Thái, mà còn được phối theo nhiều thể điệu khác nhau : từ mambo đến cha cha, từ salsa đến flamenco. Người Cuba thì chủ yếu hát bài này trong điệu bolero : tiết tấu chậm rãi nhịp điệu khoan thai, phá cách theo lối thoát nhịp chứ ít có đảo phách, nhấn mạnh nhịp lẻ.

Đối với một người mà ban đầu không nghĩ rằng mình có thể sống nhờ sáng tác, một tác giả không ''tinh thông'' nhạc lý, Osvaldo Farrés lại trở thành một trong những bậc thầy của dòng nhạc bolero. Từ lúc thành danh đầu những năm 1940 cho tới lúc ông qua đời năm 2005, sau một thời gian dài sống lưu vong ở Mỹ, để chạy trốn chế độ Fidel Castro, Osvaldo Farrés vẫn được xem là tác giả người Cuba nổi tiếng nhất ở nước ngoài.

Từ nhạc phẩm Tres Palabras cho tới Quizás Quizás, từ Esta Noche o Nunca cho tới Dime Si Te vas Conmigo, tác giả Osvaldo Farrés sáng tác theo ngẫu hứng, theo linh cảm. Ông diễn đạt được cái tâm hồn La Tinh theo cách nhìn của riêng mình : tình yêu tựa như mùi hương, vô hình mà thực tại, ta có thể dùng bút vẽ để phác họa chân dung, dùng ngôn ngữ để mô tả hình hài, chứ tận đáy con tim không thể nào mà lý giải.



Sent from my iPad

Wednesday, July 17, 2013

Thời hoa đỏ - Flame Tree

Anh mải mê về một màu mây xa
Cánh buồm bay về một thời đã qua
Em thầm hát một câu thơ cũ
Về một thời thiếu nữ say mê

Wednesday, July 10, 2013

Thơ tình Phan Đắc Lữ


CHUỒN CHUỒN CHẾT ĐUỐI AO VƠI                                                                                                                                                           

Em đi để lại hoàng hôn tím
Anh về đợi nắng viết thành thơ .

Đê xanh sông Đuống
Dải lụa phù sa
Cánh buồm rách đuổi theo mây trắng
Lá vàng rải lối bước em qua .



Ao bèo gió rối
Cỏ dại um tùm
Ngày em giặt áo bên cầu vắng
Nắng đuổi chuồn chuồn đậu nón em .

Nay em đi rồi nhện giăng đầu ngõ
Con phù du không dệt cửi bờ ao
Con chuồn chuồn đậu bờ dậu đỗ
Nhớ em tìm nón bay cao .

Ai ngóng?
Ai trông?
Ngọn cau già tóc rũ
Cúi dòm vại nước mưa ngâu
Con cung quăng nằm im giấc ngủ
Đợi em về
 đo lòng dạ nông sâu .

Chân không đi
Sao bụi đường bám gót
Cũng chẳng ai nghe ai những lời đường mật
Sao chiều nay vá víu cuộc đời
Như con chuồn chuồn chết đuối ao vơi
Ai vớt đâu nào
Cọc cầu ao mục nát .

Một mình anh ở nhà
Vui không buồn hát
Võng trưa hè chùng tao.

   Yên Viên, 1961
                                          PHAN ĐẮC LỮ





MÀU HOA CẢI

Lần đầu về quê em
Quanh co đường ngoại ô
Nắng mai buông vàng hoa cải
Nắng hồng lên môi cô gái
Nón nghiêng nghiêng che nụ cười .

Vườn nhà em cuối đông
Những luống cải lên ngồng
Vàng tươi như sắc nắng
Em nhìn tôi thẹn thùng .

Bàn tay em bướm lượn
Hái những nụ hoa vàng
Ngày mai đi chợ sớm
Phiên chợ xuân họp cuối làng .

Từ đấy tôi yêu màu hoa cải
Nơi công trường xa xôi
Tôi nhớ người con gái
Đem màu hoa làm xáo động hồn tôi .

Ba năm sau tôi về
Đường ngoại ô rắc đầy xác pháo
Vườn nhà em vắng lặng
Nắng không vàng màu hoa cải
Đàn bướm dạt bờ ao…
Mẹ bảo:
Cuối mùa thu năm trước
Em nó đi lấy chồng
Bên thôn Đoài xa lắc
Nay tay bế tay bồng
Vườn không người chăm sóc
Cỏ dại mọc um tùm…


\Ba năm qua tôi lầm lũi
Bụi công trường phủ trắng mái đầu xanh
Cậu "công tử" Sài gòn áo vá vai
Quần bảo hộ(*) đệm mông đệm gối
Đôi dép lê mòn vẹt rách tanh bành
Tôi chẳng dám về gặp em lần cuối
 Cô gái Hoàng Mai nõn nà áo lụa
Thoáng heo may là đôi má ửng hồng

Nay thì em đã theo chồng
Về bên thôn Đoài xa lắc
Bài thơ xuân gói ghém trái tim son
Tôi viết tặng em- em vẫn giữ .

Tôi lại ra đi quên tháng năm
Mang tình yêu thoảng chút hương trầm
Mắt em giữ lại màu hoa cải
Tôi trở về nơi cát bụi lầm.

Làng Hoàng Mai – Ha Nội, Xuân 1960
                 PHAN ĐẮC LỮ


(*) Quần bảo hộ lao động


Sent from my iPad