Thursday, November 28, 2013

Khúc Nguyệt Cầm


http://youtu.be/_hyAOYMUVDs

Marcel Proust (1871-1922)

 

KHÚC NGUYỆT CẦM *

 

1

 

Hơn cả những cơn mệt dọc đường, ký ức và mối lo ngại về những sự khó tính của cha tôi, sự lãnh đạm của Pia,[1] sự hung hăng của những kẻ thù tôi đã làm tôi kiệt sức. Ban ngày, bên cạnh Assunta,[2] tiếng hát của nàng, sự dịu dàng của nàng đối với tôi mà ít khi nàng có được, vẻ đẹp của nàng màu trắng, màu nâu và màu hồng, mùi thơm còn giữ lại trong từng cơn gió biển, cái lông cắn trên nón nàng, những hạt trai trên cổ nàng đã làm tôi khuây nguôi. Nhưng, vào khoảng chín giờ tối, tôi cảm thấy nặng nề khó chịu, tôi bảo nàng lấy xe trở về và để tôi ở lại nghỉ ngơi ngoài trời một tí. Lúc đó chúng tôi đã tới gần Honfleur; chọn nơi này thật là tốt, sát bên một bức tường, ngay chỗ đi vào hai con đường lớn có những cây cao chắn gió, không khí thật êm dịu; nàng bằng lòng và bỏ tôi lại đó. Tôi nằm dài trên bãi cỏ, mặt hướng lên bầu trời tối; được ru ngủ bởi tiếng sóng của biển khơi mà tôi nghe phía sau tôi nhưng không trông rõ được trong đêm tối. Chẳng mấy chốc tôi đã ngủ thiếp đi.

Liền đó tôi mơ thấy trước mặt tôi bóng mặt trời lặn đang chiếu sáng bãi cát và mặt biển ở phía xa. Hoàng hôn phủ xuống, và tôi thấy dường như đó là một buổi mặt trời lặn và một buổi hoàng hôn như tất cả những buổi hoàng hôn và tất cả những buổi mặt trời lặn khác. Nhưng bấy giờ có người đem đến cho tôi một lá thư, tôi muốn mở ra đọc mà không trông rõ được gì hết. Chỉ lúc đó tôi mới chợt thấy rằng dù ánh sáng in xuống chói chang và tỏa rộng, trời vẫn rất tối đen. Ánh mặt trời lặn hôm đó mờ nhạt một cách lạ lùng, chói lọi mà không có ánh sáng, và trên bãi cát được chiếu rõ một cách thần diệu có tụ lại nhiều bóng tối đến nỗi tôi cần phải làm một cố gắng khó nhọc mới nhận ra được một vỏ ốc. Trong cảnh hoàng hôn đặc biệt cho những giấc mộng này, thật giống như một buổi mặt trời lặn bệnh hoạn và nhạt màu trên một bãi cát gần bắc cực. Những nỗi buồn khổ của tôi đột nhiên tan biến; những quyết định của cha tôi, những tình cảm của Pia, ác ý của những kẻ thù tôi vẫn còn chế ngự tôi, nhưng không còn áp đảo tôi, như một sự cần thiết tự nhiên và đã không còn quan hệ. Sự mâu thuẫn của cái rực rỡ tối mù đó, phép mầu nhiệm trong giây phút thần diệu làm ngưng những nỗi đau đớn của tôikhông gợi nơi tôi một mối nghi ngờ nào, một nỗi sợ hãi nào cả, mà trái lại tôi như được vây phủ, tôi đẫm mình, chìm đắm trong một sự dịu dàng đang tăng dần mà nỗi vui sướng dạt dào rốt cuộc đã đánh thức tôi dậy. Tôi mở mắt ra. Rực rỡ và xanh xao, giấc mộng của tôi trải rộng ra quanh tôi. Bức tường mà tôi đã dựa lưng vào để ngủ đầy dẫy cả ánh sáng, và bóng cây trường xuân in dài trên tường cũng rõ ràng như vào lúc bốn giờ chiều. Đám lá của một cây bạch dương Hòa lan lóng lánh xoay chiều theo một làn gió nhẹ. Người ta thấy những làn sóng và những cánh buồm trắng trên mặt biển, bầu trời trong sáng, trăng đã lên. Thỉnh thoảng, những đám mây nhẹ bay qua mặt trăng, nhưng những đám mây lúc đó nhuộm đủ các sắc xanh rất nhạt tựa như màu một con sứa đông lạnh hay như trong lòng một viên đá mắt mèo. Tuy nhiên ánh sáng lúc đó đang chiếu rõ khắp nơi, mắt tôi không thấy được nó ở đâu cả. Ngay trên mặt cỏ, lúc đó đang rực rỡ trông như ảo ảnh, bóng tối cũng vẫn còn giữ lại. Những khu rừng chung quanh và một đường rãnh hoàn toàn tối đen. Đột nhiên, một tiếng động nhẹ thức dậy ngân dài như một mối lo âu, vang lớn rất nhanh, nghe như chạy dài trong cánh rừng. Đó là tiếng lá run rẩy xào xạc theo cơn gió nhẹ. Tôi nghe từng chiếc lá dồn dập nổi dậy như những cơn sóng trong cái im vắng mênh mông của đêm đen dày đặc. Rồi tiếng động đó lại giảm dần và tắt hẳn. Cả một dòng ánh sáng nằm giữa hai bờ bóng đêm tựa như con sông chảy trên cánh đồng cỏ hẹp trải dài trước mặt tôi giữa hai lối đi lớn đầy đặc những cây sồi. Trong khi chiếu rõ ngôi nhà gác, những đám lá, một cánh buồm đang chìm đắm trong đêm tối, ánh sáng trăng đã không đánh thức chúng dậy. Trong cái yên lặng như ngủ thiếp đó, mặt trăng chỉ soi rõ cái hình bóng mơ hồ huyễn hoặc của chúng, và làm ta không thể thấy rõ được những đường nét mà đối với tôi ban ngày thật hiển hiện, những đường nét bắt buộc tô phải tin chắc sự hiện diện của chúng, và sự có mặt tầm thường của chúng mãi mãi bên tôi. Ngôi nhà không cửa, đám lá không cây, gần như cũng không có một chiếc lá nào, cánh buồm không thuyền, thay vì là một thực tại không thể nào chối cãi được và là một thực tại thường xuyên vô vị, lại có vẻ như một giấc mơ kỳ lạ, chơi vơi và rực rỡ của những cây cối buồn ngủ đang đắm chìm trong bóng tối. Thật thế, những khu rừng chưa bao giờ ngủ say sưa như vậy, người ta cảm thấy là mặt trăng đã thừa dịp để lẳng lặng hoàn thành cuộc lễ vĩ đại xanh xao và dịu dàng này trên bầu trời và trên biển cả. Nỗi buồn của tôi đã biến mất. Tôi nghe cha tôi đang mắng tôi, nghe Pia chế giễu tôi, nghe những kẻ thù tôi đang âm mưu và chẳng có gì trong những thứ đó đối với tôi là thực cả. Cái thực tại duy nhất đã nằm trong luồng ánh sáng phi thực này, và tôi cầu khẩn nó mà vừa mỉm cười. Tôi không hiểu được sự giống nhau huyền bí nào đã kết liền những nỗi đau đớn của tôi với những sự huyền bí trang nghiêm đang hành lễ trong những khu rừng chung quanh, trên bầu trời và trên mặt biển, nhưng tôi cảm thấy rằng những nỗi đau đớn đó đã đọc lên những lời giải thích, an ủi và dung thứ, và dù trí óc tôi không hiểu được niềm bí ẩn cũng chẳng có gì quan trọng, bởi vì tim tôi đã nghe thấy quá rõ. Tôi gọi tên đêm tối là mẹ thánh tôi, nỗi buồn của tôi đã nhận mặt trăng là người chị bất diệt của nó, mặt trăng chiếu sáng trên những niềm đau biến hình của đêm tối và trong tim tôi, trong đó những đám mây đã tan dần, và nỗi buồn mênh mang dâng lên.

 

2

 

Rồi tôi nghe tiếng chân bước. Assunta đi về phía tôi, khuôn mặt trắng của nàng nổi lên trên một chiếc áo choàng rộng màu sẫm. Nàng nói với tôi giọng hơi nhỏ: "Em sợ anh bị lạnh, thằng em của em đã lên giường rồi, em trở lại đây." Tôi tiến lại gần nàng; tôi rùng mình, nàng kéo áo choàng khoác cho tôi và để giữ lại tà áo, nàng choàng tay qua cổ tôi. Chúng tôi bước vài bước dưới bóng cây, trong bóng đêm sâu thẳm. Một vật gì chiếu sáng trước mặt chúng tôi, tôi không kịp lùi lại và tưởng rằng chúng tôi vấp phải một thân cây, tôi đi lệch sang một bên đường, nhưng chướng ngại vật biến mất dưới bước chân chúng tôi, thì ra chúng tôi đã bước đi trên một mảnh trăng. Tôi áp đầu nàng vào sát đầu tôi. Nàng mỉm cười, tôi bèn khóc, và tôi thấy nàng cũng khóc nữa. Đến đó thì chúng tôi hiểu được rằng mặt trăng đang khóc và nỗi buồn của nó cũng hòa âm với nỗi buồn của chúng tôi. Những luồng ánh sáng dồn dập rực rỡ và êm dịu của nó đi vào đến tận tim chúng tôi. Như chúng tôi, mặt trăng cũng khóc, và cũng gần luôn luôn như chúng tôi, nó khóc mà không biết tại sao, nhưng lại cảm thấy mình khóc một cách mùi mẫn đến nỗi nó kéo theo trong nỗi thất vọng dịu dàng không làm sao ngăn được của nó những khu rừng, những cánh đồng, và cả bầu trời lúc này lại soi xuống mặt biển, và luôn cả tim tôi cuối cùng trong tim trăng đã nhìn thấy rõ.

 

 

NHƯ DƯỚI ÁNH TRĂNG *

 

Đêm đã đến, tôi vào phòng ngủ, trong lòng âu lo vì giờ đây phải nằm trong bóng tối, không còn trông thấy được bầu trời, những cánh đồng và biển khơi lấp lánh dưới ánh nắng. Nhưng khi tôi mở cửa, tôi thấy cả căn phòng toả rực áng sáng như trong buổi hoàng hôn. Qua cửa sổ tôi trông thấy ngôi nhà, những cánh đồng, bầu trời và biển cả, hay đúng hơn những thứ đó tôi như "thấy lại trong giấc mơ"; mặt trăng êm dịu đã nhắc tôi nhớ đến chúng chứ không phải đã cho tôi thấy chúng, trong khi trăng tỏa rộng trên hình dạng chúng một thứ ánh sáng nhạt màu không làm tan mất bóng đêm, bóng đêm lúc đó dày đặc như một mối quên lãng trên hình thể những cảnh tượng đó. Và tôi đã ngồi hàng giờ nhìn trong sân nhà cái kỷ niệm câm lặng, mơ hồ, tươi vui và đã mờ phai của những sự vật vào buổi ban ngày đã làm tôi vui sướng hay khổ đau, với những tiếng thét của chúng, những giọng nói của chúng hay tiếng lao xao âm ỉ của chúng.

Tình yêu đã tắt, tôi lo sợ trên ngưỡng cửa quên lãng; nhưng rồi cũng lắng dịu, hơi mờ nhạt, gần kề bên tôi mà lại cũng xa xôi và mơ hồ, tựa như dưới ánh trăng, tất cả những niềm hạnh phúc đã qua và những mối đau buồn đã được khuây nguôi của tôi nay lại nhìn tôi và nín lặng. Cái im lặng của những vui buồn đó làm tôi xúc động tuy nó xa cách và phai nhạt như vậy làm tôi cảm thấy một nỗi ngất ngây buồn bã mà thi vị. Và tôi không thể nào không nhìn mãi ánh trăng kia trong lòng tôi.[3]

 

 

----------------------
* Hai đoản văn "Khúc nguyệt cầm" (đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn số 85 ở Saigon, 1967, số đặc biệt về Marcel Proust) và "Như dưới ánh trăng" được dịch từ nguyên tác "Sonate Clair de lune" và "Comme à la lumière de la lune" trong Marcel Proust, Les Plaisirs et les Jours, Nxb. la Nouvelle Revue française, Paris, 1924. Có nhiều liên tưởng có thể nêu ra đây:
 
1. Ngày 16 tháng 9 năm 1894, từ Trouville, Proust viết cho người bạn nhạc sĩ của mình là Reynaldo Hahn, cũng là người có bốn khúc nhạc cho dương cầm được in chung trong ấn bản Les Plaisirs et les Jours đầu tiên (1896): "Trời lúc này rất đẹp, có những ánh trăng mà anh sẽ được đọc một diễn giải theo cách anh... " (Il fait un temps charmant, des clairs de lune dont vous lirez une interprétation selon vous... ) Chắc hẳn Proust muốn ám chỉ đến hai bản văn "Khúc nguyệt cầm" ("Sonate Clair de lune") và "Như dưới ánh trăng" ("Comme à la lumière de la lune"). Đây là hai trong nhiều đoản văn đẹp trong Les Plaisirs et les Jours.
 
2. "Ánh trăng" cũng là nhan đề phổ thông của bản Sonate pour piano en do dièse mineur op. 27 no. 2 [Sonata quasi una fantasia] (1801) của L.W. Beethoven. Có liên hệ gì chăng khi sau này trong Un amour de Swann, Proust gợi lại chương trình một buổi tối ở Chatou, Biche tuyên bố "không được có một chút ánh sáng nào và mình [nhạc sĩ dương cầm] chơi bản sonate Clair de lune trong bóng tối để có thể thấy rõ hơn mọi vật toả sáng như thế nào"?

_________________________

[1]Tất cả những tên người trong Les Plaisirs et les Jours đều mang vẻ ngoại lai và xưa, thường gợi những vùng đất ở Trung Âu, vùng Balkan, Ý, hoặc dẫn từ văn học. Pia/Pie và Assunta/Assomption là những tên Ý. Trong tranh ảnh Ki tô giáo, hình tượng Đức bà Đồng trinh Quy thiên (Assomption) thường được mô tả trong tư thế đứng trên một mặt trăng lưỡi liềm.

[2]Như chú thích 1.

[3]Câu kết của đoản văn này là tiếng dội của tên một đoản văn khác, "Coucher de soleil intérieur", trong Les Plaisirs et les Jours.



Tản văn của Marcel Proust

MARCEL PROUST

(1871-1922)

 

"Tuileries" là bài đầu tiên trong số 30 đoản văn (cũng có thể gọi là "thơ văn xuôi") mang tựa đề chung "Những giấc mơ màu thời gian" (Rêveries couleur du temps) để dưới một tựa đề chung khác là "Những luyến tiếc" (Les regrets) trongLes Plaisirs et les Jours (Thú vui và Ngày tháng), tuyển tập đầu tay của Proust được ấn hành. Nhà thơ Hoàng Ngọc Biên — dịch giả Proust đầu tiên của Việt Nam — đã chuyển ngữ được nhiều bài trong tuyển tập này.
 
Như tựa đề Đi tìm thời gian đã mất, nói chung, và "Những giấc mơ mang màu thời gian" nói riêng, cho thấy, thời gian đã là nỗi ám ảnh trọn đời của Proust. Khác với loài vật, con người luôn luôn ý thức về hiện tại, quá khứ và tương lai, nghĩa là ý thức về thời gian. Bởi vì thời gian ảnh hưởng tới con người và tạo vật. Qua lăng kính của thời gian mọi hình ảnh sẽ khác hẳn. Thời gian thay đổi và tiêu diệt tất cả, tình yêu, hạnh phúc, vân vân, thậm chí nó cũng có thể huỷ diệt luôn cả những kỷ niệm và ký ức, và cách duy nhất để tồn tại, theo Proust, là đi tìm thời gian đã mất — không phải với "trí nhớ tự ý" xuất phát từ lý trí và sự hồi tưởng máy móc (mémoire volontaire) chỉ có thể mang về cho ta những mẩu quá khứ chết khô, nhạt nhẽo, mà phải bằng "trí nhớ không chủ ý" do cảm xúc và mùi vị (mémoire involontaire) có thể làm sống lại quá khứ tinh khôi và trọn vẹn, mà Proust đã kể ra hai thí dụ (chiếc bánh madeleine nhúng vào tách nước trà trong một ngày mùa đông ở Paris và bước chân khập khễnh của người kể chuyện trên những lát đá không đồng đều nhau trong sân nhà Guermantes) đã hồi sinh toà "lâu đài mênh mông của kỷ niệm" — dùng trí nhớ không chủ ý mà đi tìm thời gian đã mất, để sống lại trọn cuộc đời mình một lần thứ hai trong một tác phẩm văn chương, và tồn tại, nếu không vĩnh viễn thì cũng có thể lâu dài hơn, cho tới khi chính nó cũng bị thời gian tàn phá.
 
Nguyễn Đăng Thường

 

_____________

 

VƯỜN TUILERIES [**]

 

Sáng nay trong vườn Tuileries mặt trời tuần tự thiếp ngủ trên các bậc thang đá như một gã thiếu niên tóc vàng mà một chiếc bóng lướt qua làm gián đoạn tức khắc giấc ngủ nhẹ nhàng. Các chồi xanh đối nghịch toà dinh thự cổ. Hơi thở của gió ngất ngây pha trộn hương hoa đinh[***] với mùi của quá khứ. Các pho tượng nơi công trường thường khiến cho mọi người khiếp sợ như khi gặp một mụ điên, ở đây đang mơ mơ màng màng trong những khóm cây như những nhà hiền triết dưới vòm lá xanh ngời che chở màu trắng của chúng. Các bể nước có trời xanh nằm nghỉ dưới đáy long lanh như những ánh mắt. Từ trên sân thượng cạnh bờ nước người ta có thể nhìn thấy, từ cái xóm cũ trên bến Orsay bên kia bờ, một người lính kỵ binh như từ một thế kỷ khác bước ra. Dây leo tràn ra ngoài các chậu phong lữ.[***] Say nắng, hoa hướng nhật[***] tự thiêu đốt mùi hương. Trước điện Louvres các nhánh tường vi thoai thoải phóng mình lâng lâng tựa những cột buồm quý phái và duyên dáng ửng hồng đôi má thiếu nữ. Óng ả và si tình các vòi nước túa nước lên không trung. Ở cuối sân thượng, một chàng kỵ mã bằng đá dong dỏng cao phi ngựa tại chỗ, cặp môi dán chặt vào chiếc kèn nhạc vui, thể hiện nhiệt tình của Mùa Xuân. Nhưng bầu trời bỗng tối sầm, trời sắp mưa. Các hồ nước, không còn óng ánh màu xanh của trời, trông chẳng khác gì những cặp mắt trống vắng cái nhìn hay những chiếc bình đầy nước mắt. Cái vòi nước phi lý, bị gió quất mạnh, càng lúc càng nhanh tung lên trời tiếng hát bỗng như giễu cợt. Sự êm dịu vô ích của hoa đinh là một nỗi buồn man mác. Và ở đằng kia, đôi chân bằng đá cẩm thạch kích thích bởi sự chuyển động tĩnh và cuồng trong cuộc phi nước đại tại chỗ đến chóng mặt, chàng kỵ mã vô ý thức vút mãi tiếng kèn không thôi trên nền trời đen tối.

 

------------
Nguồn: Marcel Proust, Les Plaisirs et les Jours (Paris: Gallimard, 1993).

 

_________________________

Ghi chú của người dịch:

[*]Trong nước mới đây có thêm một bản dịch Proust với tựa đề Đi tìm thời gian đã mất, chưa rõ của dịch giả nào. Nếu người dịch chuyển ngữ được hết trọn bộ bảy cuốn thì hay lắm, vì mỗi cuốn dày cộm mang tựa đề riêng dưới cái tên chung Đi tìm thời gian đã mất. Hy vọng bản dịch ấy có được sự trung thực khá cao, không cắt tỉa văn bản tuỳ nghi và cắt khúc quá nhiều các câu văn dài của Proust, thể hiện sự liên tục của lối kể chuyện gần như độc thoại nội tâm và dòng thời gian cuồn cuộn.

[*]Vườn Tuileries (Le jardin des Tuileries gọi tắt "Les Tuileries") là một công viên lớn ở ngay trung tâm Paris, bên bờ sông Seine (hữu ngạn), khởi xây theo lệnh (1553) của hoàng hậu Catherine de Médicis vợ vua Henri II, tại vị trí một lò ngói cũ (les tuileries) ở thế kỷ 16 và được tiếp tục mở mang hoàn chỉnh thêm ở các thế kỷ tiếp nối. Cổng sau của công viên ăn thông qua vườn Carousel, nhỏ hơn, và điện Louvres. Cổng trước mở ra quảng trường Concorde và đại lộ Champs Élysées thẳng tắp tới Khải Hoàn Môn (Arc de Triomphe) do Nã Phá Luân ra lệnh (1806) xây cất để ghi chiến công hiển hách sau trận Austerlitz, đại thắng hai đồng minh Áo-Nga, bị gián đoạn dưới thời kỳ khôi phục chế độ quân chủ (Restauration), và chỉ được hoàn tất (1833-36) dưới triều vua Louis Philippe; về sau có đặt thêm mồ chiến sĩ vô danh. Catherine de Médicis (1519-1589) thuộc dòng họ Médicis giàu có và danh tiếng ở Florence (Ý) đã bảo trợ các nhà danh họa Michelangelo, Botticelli... Catherine de Médicis đã văn minh hoá nước Pháp với kiến trúc Ý và thức ăn Ý, trong đó có món kem đã được người Pháp nhập khẩu vào Việt Nam trong thời thuộc địa.

[***]Lilas: hoa đinh. Géranium: hoa phong lữ. Héliotrope: hoa hướng nhật.

 


Monday, October 28, 2013

Sớm mai ... (Thơ Bùi Dzũ)


Sớm mai, trong giấc mơ
Tôi gặp người đàn bà phẫu thuật thẩm mỹ
Nằm hát đầu bờ sông
Bài đồng dao vú bự
Bài đồng dao mông to
Bài đồng dao đồng kéo
Không rõ đoạn điệp khúc thế nào
Chỉ thấy người đàn bà cười ra nước mắt
Hoà với nước sông

Sớm mai, trong giấc mơ
Tôi gặp người đàn ông bán hũ tiếu gõ
Ngồi hát giữa đêm khuya
Bài đồng dao chuột gạo
Bài đồng dao chuột chù
Không rõ đoạn điệp khúc thế nào
Chỉ thấy người đàn ông lã chã mồ hôi
Rơi cả vào nồi ngọt nước

Sớm mai, trong giấc mơ
Tôi gặp triệu triệu anh hùng chí choé
Ngồi hát bằng những ngón tay ngoan
Bài đồng dao đạo đức
Bài đồng dao lương tâm
Bài đồng dao bàn phím
Không rõ đoạn điệp khúc thế nào
Chỉ thấy triệu triệu anh hùng vãi lệ
Lụt mạng toàn cầu hơn xả lũ Bình Dương

Sớm mai, trong giấc mơ sương
Thở lời dài sượt, bình thường, mà đau...

Monday, September 30, 2013

Sống chậm ...

Steve Trần viết rất hay:

Hãy sống chậm lại, cảm nhận và hưởng thụ cuộc sống! Đừng để xã hội vật chất cuốn trôi bạn đi, dòng đời xô đẩy làm bạn mất kiểm soát. Cuộc sống quanh ta có rất nhiều điều thú vị, dễ thương nho nhỏ, nhưng chỉ vì bước đi quá vội vã mà chúng ta bỏ qua. Tại sao các nhạc sỹ lại cảm nhận được nốt nhạc trong cuộc sống, tại sao nhà thơ lại có thể rung động trước một nhành hoa? Có thể họ được ông trời thiên phú cho một số tài năng, cảm nhận bẩm sinh nhưng có một điều chắc chắn họ hơn ta trong thực tế là họ đã dừng lại, đóng băng khoảnh khắc đó, cảm nhận, nâng niu, sung sướng, hạnh phúc rồi tìm những ca từ, nốt nhạc, chắt chiu,chọn lọc, chậm rãi để biến những rung động, cảm nhận cá nhân đó thành những khuông nhạc hay áng thơ. Tất cả những cái đó đầu tiên là để thỏa mãn cá nhân, để giúp họ hưởng thụ cuộc sống sau đó mới phổ biến ra xã hội như một cách họ chia sẻ niềm vui. Họ đã dành thời gian để sống chậm lại với những khoảnh khắc, còn ta thì tua nhanh cho đến hết cuộc đời.

Người phương Tây có câu: "Cuộc sống là một món quà" (Life is a gift). Hay trong hậu Tây Du Ký của Phương Đông, sau khi bốn thầy trò Đường Tam Tạng đi Tây Trúc thỉnh kinh về, được đầu thai làm Bồ Tát. Trong đêm cuối cùng của kiếp người, đợi ngày mai trời sáng vào cõi Niết Bàn, Tam Tạng trằn trọc bâng khuâng không ngủ được mà theo lời Tôn Ngộ Không là do ông nhớ cả một kiếp người, Tôn Ngộ Không là một con khỉ đá và thích hưởng thụ cuộc sống, hỉ nộ ái ố của kiếp người hơn là kiếp Phật vô ưu vô lo. Chúng ta là người nhưng lại không cảm nhận được sao?

Hãy tận hưởng những giây phút bạn sống trên cuộc đời này.

(Sẽ đưa link trên comment)


Sent from my iPad

Thursday, August 29, 2013

Lẵng quả Thông ... K. Pautovski

Sắp một năm từ ngày đọc lại truyện này trên blog icva :)



Lẵng Quả Thông

"Người ta thích lý sự với nhau về hạnh phúc, nhưng ít ai hiểu được rằng hạnh phúc lớn nhất là hiểu được nhau"

Mùa thu, nhà soạn nhạc Êđua Grig thường về ở trong những khu rừng gần thành phố Becghen. Mọi khu rừng đều đẹp với bầu không khí phảng phất mùi nấm, với tiếng lá rì rào. Nhưng những khu rừng trên núi và gần biển mới thực là đẹp. Đứng ở đó ta nghe rõ cả tiếng sóng vỗ bờ. Sương mù và biển cả thường xuyên tràn vào và vì khí ẩm quá nhiều nên rêu mọc rậm rịt. Rêu từ trên cành cây xõa dài trên mặt đất như những mớ tóc xanh.

Ngoài các thứ đó ra, trong những khu rừng trên núi, còn trú ngụ một tiếng vang vui tính. Giống như một con khướu nó chỉ làm độc một việc là rình mò để chộp lấy bất kỳ tiếng động nào để rồi liệng lại qua những vách đá.
Một hôm Grigơ bắt gặp trong rừng một em bé có đôi bím tóc nhỏ xíu, con ông gác rừng. Em bé đang nhặt những quả thông bỏ vào trong lẵng.
Trời đang thu. Nếu như ta có thể lấy hết đồng và vàng trên trái đất đem đánh thành muôn vàn lá cây rất mực tinh xảo thì những chiếc lá đó cũng chỉ có thể làm thành một phần rất nhỏ bộ quần áo mà mùa thu đang trải trên những ngọn núi kia mà thôi. Vả lại, những chiếc lá nhân tạo nọ sẽ rất thô kệch nếu so với lá thật, nhất là những lá liễu hoàn diệp. Mọi người đều biết rằng chỉ cần một tiếng chim hót thôi cũng đã đủ làm chúng run rẩy.
- Cháu tên là gì nào? – Grigơ hỏi.
- Cháu là Đanhi Pêđécxen. – Em bé lí nhí trả lời.
Em bé trả lời lí nhí không phải vì sợ, mà vì bối rối.
Nó sợ sao được khi cặp mắt của Grigơ đang cười.
- Rõ tiếc… – Grigơ nói. – Bác chả có quà gì cho cháu cả. Trong túi bác chả có búp bê, chả có băng, đến cả những con thỏ nhung cũng không có nốt.
- Cháu có con búp bê cũ của mẹ cháu. – Em bé trả lời – Trước kia nó cũng biết nhắm mắt cơ bác ạ. Như thế này này…
Nó từ từ nhắm mắt lại. Khi nó mở mắt. Grig nhận thấy con ngươi của nó có màu xanh lá cây nhạt và vòm lá rừng lấp lánh trong mắt nó như những đốm lửa nhỏ.
- Nhưng bây giờ thì nó ngủ mở mắt. – Em bé buồn rầu nói tiếp – người già hay khó ngủ lắm. Ông cháu cũng vậy, cứ kêu rên cả đêm.
- Này Đanhi này, bác nghĩ ra rồi, – Grigơ nói – bác sẽ cho cháu một món quà thú vị. Nhưng không phải ngay bây giờ, mà độ mười năm nữa.
Đanhi đập hai tay vào nhau:
- Ôi thế thì lâu quá!
- Cháu hiểu không, bác còn phải làm ra nó đã chứ.
- Nhưng nó là cái gì kia, bác?
- Sau này cháu sẽ biết.
- Chả lẽ suốt đời bác, bác chỉ làm được có dăm sáu thứ đồ chơi thôi hay sao? – Em bé nghiêm nghị hỏi.
Grigơ bối rối.
- Không, không phải thế. – Ông cãi lại một cách không được quả quyết. – Có thể bác sẽ làm xong vật ấy trong vài ngày. Nhưng những thứ đó người ta không cho trẻ con. Bác thường chỉ làm ra những món quà cho người lớn.
- Cháu sẽ không đánh vỡ đâu mà – Đanhi năn nỉ và nắm lấy ống tay áo ông kéo lại. – Mà cháu cũng chẳng làm hỏng đâu. Đấy, rồi bác xem! Ông cháu có một chiếc thuyền thủy tinh bé tí tẹo, cháu vẫn lau bụi cho nó đấy nhưng cháu có làm sứt nó tí nào bao giờ đâu.
"Cái con Đanhi này làm mình rối tinh lên rồi đấy? Grigơ bực bội nghĩ thầm và rồi ông lặp lại những điều mà người lớn thường nói với trẻ con khi lâm vào thế bí.
- Cháu hãy còn bé và có nhiều điều cháu không hiểu. Hãy học tập tính kiên nhẫn. Còn bây giờ thì cháu đưa cái lẵng đây cho bác. Cháu ì ạch mãi mới mang nổi nó kia kìa. Bác sẽ đưa cháu về nhà và chúng ta sẽ nói với nhau về một chuyện gì khác.
Đanhi thở dài và đưa cái lẵng cho Grigơ. Cái lẵng quả khá nặng. Trong quả thông có nhiều nhựa, vì thế quả thông nặng hơn quả tùng bách.
Khi nhà người gác rừng đã hiện ra giữa đám cây, Grigơ bảo cô bé:
- Thôi, cháu Đanhi, bây giờ cháu chạy về một mình nhé. Ở Nauy có rất nhiều em bé gái trùng tên trùng họ với cháu. Bố cháu tên là gì nhỉ?
- Hagrup ạ! – Đanhi trả lời và hỏi tiếp, vầng trán nhăn lại. – Bác không vào chơi nhà cháu ư? Nhà cháu có chiếc khăn giải bàn này, có con mèo hung này, lại có chiếc thuyền bằng thủy tinh nữa. Ông cháu sẽ cho phép bác cầm nó đấy.
- Cảm ơn cháu. Bây giờ bác không có thì giờ. Chào cháu. Đanhi ạ.
Grig vuốt tóc em bé rồi đi về phía bờ biển. Đanhi chau mày trông theo. Em xách cái lẵng nghiêng về một bên và những quả thông rơi xuống đất.
"Ta sẽ làm một bản nhạc – Grigơ quyết định. – Và trên trang bìa ta sẽ cho in: "Tặng Đanhi Pêđécxen, con gái người gác rừng Hagrup Pêđécxen, khi cô mười tám tuổi".
Ở Bécghen không có gì thay đổi.
Tất cả những gì có thể làm cho âm thanh bị nuốt đi như thảm, rèm cửa bằng vải dày, giường, ghế, đệm, Grigơ đã loại ra khỏi nhà. Chỉ còn lại một chiếc đi-văng cũ kỹ đủ chỗ cho một người khách ngồi là Grigơ vẫn chưa dám bỏ đi nốt.
Các bạn của nhà soạn nhạc nói rằng nhà của ông giống nơi ở của một tiều phu. Chỉ có một chiếc dương cầm là vật trang sức cho ngôi nhà. Người giàu tưởng tượng có thể nghe thấy giữa những bức tường trắng ở đây nhiều điều kỳ diệu, từ tiếng gầm thét của Bắc băng dương – cái đại dương đang dồn sóng từ trong màn sương mù và gió ra ngoài, và bên trên sóng gió nó ríu rít kể câu chuyện cổ xưa man rợ – cho đến bài hát của đứa con gái ru con búp bê bằng giẻ rách.
Chiếc dương cầm có thể ca về tất cả: về tâm hồn con người đang phấn khởi vươn tới cái cao cả và về tình yêu. Những phím đàn đen và trắng, lướt nhanh dưới những ngón tay chắc nịch của Grigơ, buồn bã, cười cợt ầm ĩ réo lên giông tố và căm thù rồi bất thần lặng hẳn đi.
Trong phút lặng lẽ ấy chỉ còn một sợi dây đàn nhỏ bé là còn rung mãi như thể nàng Lọ Lem bị các chị mắng mỏ đang than khóc.
Grigơ ngả người ra, lắng nghe theo cái âm thanh cuối cùng ấy cho đến khi nó tắt hẳn ở trong bếp, nơi chú dế mèn đã dọa đến cư ngụ từ lâu.
Đến lúc ấy mới nghe rõ tiếng vòi nước nhỏ giọt, đếm từng giây, hệt như một cái máy đo tiết điệu. Những giọt nước nhấn mạnh rằng thời gian không chờ đợi ai và cần phải hối hả làm cho xong những điều dự định.
Grigơ viết bản nhạc tặng Đanhi Pêđécxen trong hơn một tháng.
Mùa đông bắt đầu. Sương mù cao xấp xỉ đầu người phủ khắp thành phố. Những con tàu biển han rỉ từ nhiều nước kéo đến gà gật bên những bến cảng lát gỗ, khe khẽ phì phò thở hơi nước.
Chẳng bao lâu tuyết bắt đầu xuống. Grigơ nhìn qua cửa sổ nhà mình thấy những bông tuyết bay chênh chếch, cố bám lấy ngọn cây. Tất nhiên, không thể nào truyền đạt âm nhạc bằng lời, dù cho ngôn ngữ của chúng ta có phong phú đến thế nào chăng nữa.
Grigơ sáng tác về cái đẹp vô cùng của lòng trinh trắng và của hạnh phúc.
Ông viết và trông thấy cô gái có đôi mắt xanh đang nghẹn ngào vì sung sướng, chạy đến với ông. Cô gái vòng tay ôm lấy cổ ông, áp bên má nóng bừng của cô vào cái má đầy những sợi râu bạc lâu ngày không cạo của ông. "Cảm ơn bác", cô nói trong lúc chính cô cũng chẳng biết cô cảm ơn ông vì lẽ gì.
"Cháu như mặt trời – Grigơ nói với cô – cháu như làn sóng êm dịu, như buổi sáng tươi mát. Một bông hoa trắng ngần đã bừng nở trong tim cháu và làm tràn ngập thân cháu hương ngát mùa xuân. Ta rất hiểu cuộc đời. Cháu ạ, dù người ta có nói với cháu những gì đi nữa thì cháu hãy cứ tin rằng cuộc đời thật là kỳ diệu và tuyệt đẹp. Ta già rồi, nhưng ta đã hiến tất cả cuộc đời ta, sự nghiệp và tài năng của ta cho tuổi trẻ. Ta đã hiến tất cả mà không đòi trả lại. Vì thế, có thể, ta còn hạnh phúc hơn cả cháu nữa kia. Đanhi ạ!
Cháu là đêm trắng với ánh sáng huyền ảo của nó. Cháu là hạnh phúc. Cháu là ánh lấp lánh của bình minh. Tiếng nói của cháu làm trái tim mọi người rung động.
Cầu Chúa ban phước lành cho mọi vật chung quanh cháu, cho tất cả những gì chạm tới người cháu và những gì cháu chạm tới, những gì làm cháu sung sướng và bắt cháu phải trầm ngâm suy nghĩ".
Grigơ suy nghĩ và những gì ông suy nghĩ, ông gửi vào phím đàn. Ông ngờ rằng có người nghe trộm ông. Ông còn đoán được ai đang nghe trộm ông nữa. Đó là những con sơn tước trên cành, những tay thủy thủ ngoài cảng quá chén đang lang thang, chị thợ giặt bên hàng xóm, chú dế mèn, những bông tuyết từ trên bầu trời trĩu nặng kia tải xuống và nàng Lọ lem trong bộ quần áo vá chằng vá đụp.
Mỗi người nghe ông theo cách của họ.
Những con sơn tước bối rối. Nhưng dù chúng có loay hoay thế nào mặc lòng những câu chuyện huyên thuyên của chúng cũng không thể át nổi tiếng đàn. Những tay thủy thủ quá chén lang thang ngồi xuống bậc thềm nhà ông, vừa nghe vừa nức nở. Chị thợ giặt đứng thẳng lên, lấy lòng bàn tay lau cặp mắt đỏ hoe và lắc đầu. Chú dế mèn chui ra khỏi kẽ nứt của chiếc lò sưởi lát gạch sứ vuông và nhòm Grigơ qua một khe hở.
Một bông tuyết rơi, ngập ngừng, lơ lửng giữa từng không, nó nghe thấy tiếng nhạc lanh lảnh đang chảy từ trong nhà ra như những dòng suối. Còn cô Lọ Lem thì mỉm cười nhìn xuống sàn. Một đôi giày xinh xắn bằng pha lê nằm bên chân cô. Đôi giày run rẩy, va vào nhau, đáp lại những hợp âm đang từ trong phòng nhà soạn nhạc bay ra.
Grigơ đánh giá những thính giả ấy cao hơn nhiều so với những quý ngài ăn vận sang trọng và lịch sự vẫn thường tới dự những buổi hòa nhạc của ông.
***
Năm mười tám tuổi Đanhi học hết trung học.
Nhân dịp này cha nàng cho nàng về chơi ít lâu với bà Magđa, em gái ông, ở Krixtania. "Cho con bé (cha nàng vẫn coi nàng là con bé con, mặc dầu Đanhi đã là một cô gái có một thân hình cân đối với đôi bím tóc vàng nặng trĩu) biết cái thế giới này nó ra sao, người ta sống thế nào, và cho nó được giải trí một chút".
Ai biết được rồi đây tương lai sẽ dành cho Đanhi những gì? Có thể, tương lai sẽ dành cho nàng một người chồng chân thật và yêu nàng nhưng lại đáng ngán và keo kiệt? Hay một chân bán hàng ở một quán tạp hóa trong làng? Hoặc việc làm tại một trong vô vàn những hãng tàu biển ở Bécghen.
Bà Magđa làm thợ may trong một nhà hát. Chồng bà, ông Ninx, cũng làm trong nhà hát ấy. Ông làm nghề tết râu tóc giả.
Hai vợ chồng ở trong một phòng nhỏ ngay dưới mái nhà hát. Từ trong phòng nhỏ nhìn ra có thể trông rõ biển sặc sỡ những lá cờ hiệu hàng hải và pho tượng Ipxen (1).
Những con tàu suốt ngày cứ chõ vào các cửa sổ bỏ ngỏ mà la hét. Ông Ninx đã nghiên cứu những tiếng kêu của lũ tàu thủy ấy kỹ đến nỗi, theo ông nói, ông có thể biết chắc chắn chiếc tàu nào đang kéo còi: tàu Nôđécmây từ hải cảng Côpenhaghen đến, tàu "Người ca sĩ xứ Ecôtx" từ Glazgô hay tàu "Gan đ'Ar" từ Boocđô.
Trong phòng bà Magđa, có rất nhiều vật dụng của nhà hát, gấm thêu, lụa, tuyn, băng, đồ ren, những chiếc mũ dạ thời xưa gắn lông đà điểu đen, những chiếc khăn san của người Digan, những mớ tóc giả bạc trắng, những đôi ủng cao với cựa bằng đồng, những lưỡi gưm, những chiếc quạt và những đôi giày dát bạc đã nát ở những nếp gấp. Tất cả những thứ đó đòi hỏi phải được vá víu sửa chữa, lau chùi và là phẳng.
Trên tường treo những tranh nhỏ cắt ra từ sách và tạp chí: những kỵ sĩ thời vua Lui XIV, những cô gái đẹp bận váy bông, những trang hiệp sĩ, những người đàn bà Nga trong bộ Xaraphan (2) những tay mạch nô và lũ hải tặcVikinh (3) trên đầu mang những vòng lá sồi.
Muốn lên tới phòng phải leo một cái thang dựng đứng. Ở cầu thang bao giờ cũng phảng phất mùi sơn và mùi vécni bốc lên từ lớp vàng mạ.
* * *
Đanhi thường hay đi xem hát. Đó là một việc hết sức thú vị. Nhưng sau khi xem xong những vở kịch về, Đanhi thường thao thức mãi không ngủ được và đôi khi nàng còn nằm trên giường mà khóc.
Bà Magđa lấy thế làm lo lắng và thường an ủi Đanhi. Bà nói rằng không nên mù quáng tin những gì diễn ra trên sân khấu. Nhưng ông Ninx thì vì thế lại gọi bà là "mụ nái xề" và nói rằng ngược lại, nên tin tất cả những gì xảy ra trên sân khấu. Nếu không thế thì người ta cũng chẳng cần đến nhà hát nào nữa. Và Đanhi tin lời ông.
Tuy vậy bà Magđa vẫn cứ nhất định đòi đi nghe hòa nhạc để đổi món.
Ông Ninx không chống lại ý kiến ấy của bà. Ông nói: "Âm nhạc, đó là tấm gương của thiên tài".
Ông Ninx thích dùng những danh từ cao siêu và mơ hồ. Ông cho Đanhi giống như hợp âm đầu tiên của một tự khúc. Còn bà Magđa thì theo lời ông, lại có một quyền lực siêu phàm đối với mọi người. Quyền lực đó là ở chỗ bà may những trang phục sân khấu. Mà có ai chẳng biết rằng con người cứ mỗi lần thay một bộ quần áo khác là lại biến đổi hẳn. Thành thử anh diễn viên hôm qua còn là tên giết người bỉ ổi, hôm nay đã trở thành chàng nhân tình si mê điên dại, ngày mai lại là anh hề của nhà vua, còn ngày kia anh ta đã lại thành vị anh hùng của nhân dân.
Trong những trường hợp đó bà cô của Đanhi thường kêu lên:
- Đanhi! Cháu hãy bịt tai lại đi và đừng có nghe những lời ba hoa gớm ghiếc của chú ấy làm gì! Chú ấy chẳng biết chú ấy nói gì đâu, lão triết gia kiết xác ấy.
Lúc ấy là tháng sáu, trời ấm. Đang hồi những đêm trắng. Những buổi hòa nhạc được tổ chức ngoài trời, tại công viên thành phố.
Đanhi đi nghe hòa nhạc cùng cô Magđa và chú Ninx. Nàng muốn mặc chiếc áo dài trắng độc nhất của mình, nhưng chú Ninx lại bảo rằng người con gái đẹp cần phải biết ăn mặc sao cho nổi bật hẳn lên giữa những người chung quanh. Nói chung, bài diễn văn dài dòng của ông về chuyện đó có thể tóm tắt lại là trong những đêm trắng nhất thiết phải mặc áo đồ đen và ngược lại, trong những đêm tối trời nên mặc đồ trắng để phô sắc trắng lấp lánh của nó.
Không thể nào cãi lại ông Ninx, Đanhi mặc chiếc áo dài nhung đen, loại nhung lụa tuyết rất mịn. Bà Magđa đã mượn trong kho phục trang của nhà hát cho nàng chiếc áo đó.
Khi Đanhi đã mặc xong, bà Magđa phải chịu là ông Ninx có lý: không gì có thể tôn nước da mai mái nghiêm nghị trên gương mặt của nàng và đôi bím tóc dài lấp lánh vàng mười của nàng bằng thứ nhung huyền bí ấy.
- Này Magđa, mình trông mà xem – chú Ninx nói khẽ – con Đanhi đẹp như thể nó đi gặp người yêu trong buổi đầu tiên ấy.
- Đúng vậy, – bà Magđa trả lời. – Thế mà lần hẹn đầu tiên khi ông đến gặp tôi, tiếc rằng tôi lại chả được thấy ông là một anh chàng điển trai si tình. Ông chỉ là một anh chàng ba hoa.
Và bà Magđa đặt một cái hôn lên mái tóc của chồng.
Buổi hòa nhạc bắt đầu sau khi khẩu đại bác cũ kỹ ở ngoài cảng nổ phát súng thường lệ buổi tối. Phát súng báo hiệu mặt trời lặn.
Mặc dầu là buổi tối, cả nhạc trưởng, cả các nhạc công đều không thắp những ngọn điện nhỏ trên những giá nhạc. Tối hôm đó trời sáng đến nỗi những cây đèn lồng được thắp trong tán lá bồ đề hẳn cũng chỉ cốt để tạo cho buổi hòa nhạc một không khí hội hè.
Lần đầu tiên Đanhi được nghe một bản giao hưởng. Bản nhạc gợi lên trong lòng cô một nỗi xốn xang kỳ lạ.

Những âm thanh chuyển tiếp và những hồi sấm của dàn nhạc gợi lên trong trí Đanhi không biết bao nhiêu là hình ảnh giống như trong những giấc mơ.
Bỗng Đanhi giật mình, ngước mắt lên. Nàng có cảm giác như người đàn ông gày gò mặc áo đuôi tôm đang tuyên bố chương trình biểu diễn vừa gọi đến tên nàng.
- Chú gọi cháu đấy ư, chú? – Đanhi hỏi ông Ninx và ngay đó nàng cau mặt.
Chú nàng nhìn nàng một cách không ra là kinh hãi mà cũng không ra là thán phục. Và cả bà Magđa nữa, bà cũng nhìn Đanhi như vậy, chiếc khăn áp vào miệng.
- Có chuyện gì xảy ra vậy? – Đanhi hỏi.
Bà Magđa nắm lấy tay nàng và nói rất khẽ:
- Nghe kìa!
- Các vị thính giả ở những hàng ghế cuối yêu cầu tôi nhắc lại. Vậy, thưa quý vị, dàn nhạc chúng tôi sẽ trình bày hiến quý vị một khúc nhạc nổi tiếng của nhạc sĩ Êđua Grigơ sáng tác tặng cô Đanhi Pêđécxen, con gái ông gác rừng Hagrup Pêđécxen nhân dịp cô mười tám tuổi.
Đanhi hít một hơi dài đến nỗi nàng thấy tức ngực. Nàng muốn dùng hơi thở đó để giữ những giọt nước mắt đang trào lên họng, nhưng vô hiệu. Đanhi cúi xuống và giấu mặt trong đôi bàn tay.
Thoạt đầu nàng không nghe thấy gì hết. Một cơn giông đang cuồn cuộn trong lòng nàng. Cuối cùng nàng nghe thấy tiếng tù và mục đồng rúc lên trong buổi sớm tinh sương và dàn nhạc dây khẽ giật mình, đáp lại bằng hàng trăm tiếng hát.
Điệu nhạc du dương lớn dần, cất mình lên cao; nó gào lên, bay nhanh qua các ngọn cây, như một luồng gió, vặt hết lá, thổi rạp cỏ xuống đất, quất vào mặt người những giọt nước nhỏ xíu và mát rượu. Đanhi cảm thấy có một luồng không khí do âm nhạc dấy lên phả đến và nàng bình tĩnh lại.
Phải, đó đúng là cánh rừng của nàng, quê hương nàng. Đó là những ngọn núi của nàng, những bài hát của những chiếc tù và, tiếng động của biển quê.
Những con tàu bằng thủy tinh làm nước sủi bọt. Gió reo ca trong những dây buồm. Từ lúc nào không biết, tiếng hát đó đã chuyển thành tiếng những quả chuông nhỏ trong rừng đổ hồi, tiếng đàn chim đang nhào lộn trên không huýt gió, tiếng trẻ con hú gọi nhau trong rừng thành bài hát về người con gái: lúc bình minh người yêu của nàng đã ném một vốc cát vào cửa sổ phòng nàng. Bài hát đó Đanhi đã nghe thấy trên những ngọn núi quê hương.
Vậy ra đó chính là bác ấy. Chính cái ông già đã giúp cô bé Đanhi mang lẵng quả thông về đến tận nhà. Đó là Êđua Grigơ, người làm ra phép lạ và nhạc sĩ vĩ đại? Và người mà nàng đã trách là không biết làm mau chóng.
Thì ra đó chính là món quà mà ông đã hứa cho nàng mười năm sau.
Đanhi khóc, không giấu giếm những giọt lệ biết ơn. Đến lúc ấy bản nhạc đã tràn ngập khoảng không giữa đất đai và mây trời giăng mắc trên thành phố. Sóng nhạc du dương làm cho những đám mây gợn lên lăn tăn và qua những gợn sóng ấy những vì sao lấp lánh.
Bản nhạc đã không còn ca hát. Nó đang kêu gọi. Nó kêu gọi con người hãy đi theo nó đến một xứ sở, nơi không đau khổ nào có thể làm nguội lạnh tình yêu, nơi không có ai đi giành giật hạnh phúc của kẻ khác, nơi mặt trời sáng chói như vòng triều thiên trên đầu một nàng tiên trong cổ tích.
Trong dòng âm thanh cuồn cuộn chảy trôi ấy bỗng nổi lên một giọng nói quen thuộc "Cháu là hạnh phúc – giọng đó nói . – Cháu là ánh lấp lánh của bình minh".
Bản nhạc tắt. Những tràng vỗ tay lúc đầu còn chầm chậm, sau mỗi lúc một mạnh thêm, vang lên như sấm dậy.
Đanhi đứng lên và đi nhanh về phía cổng công viên.
Mọi người cùng quay đầu lại nhìn nàng. Có thể, có một số người trong đám thính giả đã thoáng nghĩ rằng nàng chính là Đanhi Pêđécxen, người con gái mà Grigơ đã dành tặng tác phẩm bất tử của ông.
"Bác ấy mất rồi ư? – Đanhi nghĩ – Vì sao? "Giá mà nàng lại được gặp ông! Nếu ông lại hiện ra ở đây? Hẳn nàng sẽ chạy ào ngay lại với ông, tim đập rộn ràng, nàng sẽ bá lấy cổ ông, sẽ áp bên má ướt đẫm nước mắt vào má ông và sẽ nói chỉ một câu: "Cảm ơn bác". – "Cháu cảm ơn ta vì lẽ gì cơ chứ?" Hẳn ông sẽ hỏi như thế. "Cháu cũng chả biết nữa…" – Hẳn nàng sẽ trả lời. – Vì bác đã không quên cháu. Vì lòng hào hiệp của bác. Vì bác đã cho cháu thấy cái tuyệt mỹ, mà con người thì phải sống bằng cái tuyệt mỹ ấy".
Đanhi đi trên những đường phố vắng tanh. Nàng không biết rằng bà Magđa đã phái ông Ninx đi theo nàng nhưng ông giấu không để nàng trông thấy. Ông đi lảo đảo như một người say rượu, miệng lẩm bẩm không biết những gì về câu chuyện thần kỳ xảy ra trong cuộc sống của họ.
Bóng tối nhợt nhạt của đêm vẫn còn trải trên thành phố. Nhưng trong các cửa sổ đã thấy lấp lánh ánh vàng mạ yếu ớt của bình minh phương Bắc.
Đanhi đi ra bờ biển. Biển vẫn còn ngủ say, không một tiếng sóng vỗ.
Đanhi nắm chặt hai tay lại và rền rĩ vì một cảm giác tuy còn chưa rõ ràng đối với nàng, nhưng đã chiếm lĩnh toàn cơ thể nàng cảm giác về cái đẹp của cuộc đời.
- Đời ơi, hãy nghe đây! – Đanhi nói khẽ. – Ta yêu người.
Và nàng cười, mở to mắt nhìn những ngọn đèn trên những con tàu biển đang chậm rãi ngả nghiêng nơi nước xám và trong vắt.
Ông Ninx đứng ở đàng xa đã nghe thấy tiếng cười đó và ông quay về nhà. Giờ đây ông đã yên tâm về Đanhi. Giờ đây ông hiểu rằng cuộc đời cháu gái ông sẽ không qua đi vô ích.

Tuesday, August 13, 2013

Chiều Hồ Tây

Lao xao hoài con sóng
Chợt hoàng hôn về từ bao giờ ...