Lẵng Quả Thông
"Người ta thích lý sự với nhau về hạnh phúc, nhưng ít ai hiểu được rằng hạnh phúc lớn nhất là hiểu được nhau"
Mùa thu, nhà soạn nhạc Êđua Grig thường về ở trong những khu rừng gần thành phố Becghen. Mọi khu rừng đều đẹp với bầu không khí phảng phất mùi nấm, với tiếng lá rì rào. Nhưng những khu rừng trên núi và gần biển mới thực là đẹp. Đứng ở đó ta nghe rõ cả tiếng sóng vỗ bờ. Sương mù và biển cả thường xuyên tràn vào và vì khí ẩm quá nhiều nên rêu mọc rậm rịt. Rêu từ trên cành cây xõa dài trên mặt đất như những mớ tóc xanh.
Ngoài các thứ đó ra, trong những khu rừng trên núi, còn trú ngụ một tiếng vang vui tính. Giống như một con khướu nó chỉ làm độc một việc là rình mò để chộp lấy bất kỳ tiếng động nào để rồi liệng lại qua những vách đá.
Một hôm Grigơ bắt gặp trong rừng một em bé có đôi bím tóc nhỏ xíu, con ông gác rừng. Em bé đang nhặt những quả thông bỏ vào trong lẵng.
Trời đang thu. Nếu như ta có thể lấy hết đồng và vàng trên trái đất đem đánh thành muôn vàn lá cây rất mực tinh xảo thì những chiếc lá đó cũng chỉ có thể làm thành một phần rất nhỏ bộ quần áo mà mùa thu đang trải trên những ngọn núi kia mà thôi. Vả lại, những chiếc lá nhân tạo nọ sẽ rất thô kệch nếu so với lá thật, nhất là những lá liễu hoàn diệp. Mọi người đều biết rằng chỉ cần một tiếng chim hót thôi cũng đã đủ làm chúng run rẩy.
- Cháu tên là gì nào? – Grigơ hỏi.
- Cháu là Đanhi Pêđécxen. – Em bé lí nhí trả lời.
Em bé trả lời lí nhí không phải vì sợ, mà vì bối rối.
Nó sợ sao được khi cặp mắt của Grigơ đang cười.
- Rõ tiếc… – Grigơ nói. – Bác chả có quà gì cho cháu cả. Trong túi bác chả có búp bê, chả có băng, đến cả những con thỏ nhung cũng không có nốt.
- Cháu có con búp bê cũ của mẹ cháu. – Em bé trả lời – Trước kia nó cũng biết nhắm mắt cơ bác ạ. Như thế này này…
Nó từ từ nhắm mắt lại. Khi nó mở mắt. Grig nhận thấy con ngươi của nó có màu xanh lá cây nhạt và vòm lá rừng lấp lánh trong mắt nó như những đốm lửa nhỏ.
- Nhưng bây giờ thì nó ngủ mở mắt. – Em bé buồn rầu nói tiếp – người già hay khó ngủ lắm. Ông cháu cũng vậy, cứ kêu rên cả đêm.
- Này Đanhi này, bác nghĩ ra rồi, – Grigơ nói – bác sẽ cho cháu một món quà thú vị. Nhưng không phải ngay bây giờ, mà độ mười năm nữa.
Đanhi đập hai tay vào nhau:
- Ôi thế thì lâu quá!
- Cháu hiểu không, bác còn phải làm ra nó đã chứ.
- Nhưng nó là cái gì kia, bác?
- Sau này cháu sẽ biết.
- Chả lẽ suốt đời bác, bác chỉ làm được có dăm sáu thứ đồ chơi thôi hay sao? – Em bé nghiêm nghị hỏi.
Grigơ bối rối.
- Không, không phải thế. – Ông cãi lại một cách không được quả quyết. – Có thể bác sẽ làm xong vật ấy trong vài ngày. Nhưng những thứ đó người ta không cho trẻ con. Bác thường chỉ làm ra những món quà cho người lớn.
- Cháu sẽ không đánh vỡ đâu mà – Đanhi năn nỉ và nắm lấy ống tay áo ông kéo lại. – Mà cháu cũng chẳng làm hỏng đâu. Đấy, rồi bác xem! Ông cháu có một chiếc thuyền thủy tinh bé tí tẹo, cháu vẫn lau bụi cho nó đấy nhưng cháu có làm sứt nó tí nào bao giờ đâu.
"Cái con Đanhi này làm mình rối tinh lên rồi đấy? Grigơ bực bội nghĩ thầm và rồi ông lặp lại những điều mà người lớn thường nói với trẻ con khi lâm vào thế bí.
- Cháu hãy còn bé và có nhiều điều cháu không hiểu. Hãy học tập tính kiên nhẫn. Còn bây giờ thì cháu đưa cái lẵng đây cho bác. Cháu ì ạch mãi mới mang nổi nó kia kìa. Bác sẽ đưa cháu về nhà và chúng ta sẽ nói với nhau về một chuyện gì khác.
Đanhi thở dài và đưa cái lẵng cho Grigơ. Cái lẵng quả khá nặng. Trong quả thông có nhiều nhựa, vì thế quả thông nặng hơn quả tùng bách.
Khi nhà người gác rừng đã hiện ra giữa đám cây, Grigơ bảo cô bé:
- Thôi, cháu Đanhi, bây giờ cháu chạy về một mình nhé. Ở Nauy có rất nhiều em bé gái trùng tên trùng họ với cháu. Bố cháu tên là gì nhỉ?
- Hagrup ạ! – Đanhi trả lời và hỏi tiếp, vầng trán nhăn lại. – Bác không vào chơi nhà cháu ư? Nhà cháu có chiếc khăn giải bàn này, có con mèo hung này, lại có chiếc thuyền bằng thủy tinh nữa. Ông cháu sẽ cho phép bác cầm nó đấy.
- Cảm ơn cháu. Bây giờ bác không có thì giờ. Chào cháu. Đanhi ạ.
Grig vuốt tóc em bé rồi đi về phía bờ biển. Đanhi chau mày trông theo. Em xách cái lẵng nghiêng về một bên và những quả thông rơi xuống đất.
"Ta sẽ làm một bản nhạc – Grigơ quyết định. – Và trên trang bìa ta sẽ cho in: "Tặng Đanhi Pêđécxen, con gái người gác rừng Hagrup Pêđécxen, khi cô mười tám tuổi".
Ở Bécghen không có gì thay đổi.
Tất cả những gì có thể làm cho âm thanh bị nuốt đi như thảm, rèm cửa bằng vải dày, giường, ghế, đệm, Grigơ đã loại ra khỏi nhà. Chỉ còn lại một chiếc đi-văng cũ kỹ đủ chỗ cho một người khách ngồi là Grigơ vẫn chưa dám bỏ đi nốt.
Các bạn của nhà soạn nhạc nói rằng nhà của ông giống nơi ở của một tiều phu. Chỉ có một chiếc dương cầm là vật trang sức cho ngôi nhà. Người giàu tưởng tượng có thể nghe thấy giữa những bức tường trắng ở đây nhiều điều kỳ diệu, từ tiếng gầm thét của Bắc băng dương – cái đại dương đang dồn sóng từ trong màn sương mù và gió ra ngoài, và bên trên sóng gió nó ríu rít kể câu chuyện cổ xưa man rợ – cho đến bài hát của đứa con gái ru con búp bê bằng giẻ rách.
Chiếc dương cầm có thể ca về tất cả: về tâm hồn con người đang phấn khởi vươn tới cái cao cả và về tình yêu. Những phím đàn đen và trắng, lướt nhanh dưới những ngón tay chắc nịch của Grigơ, buồn bã, cười cợt ầm ĩ réo lên giông tố và căm thù rồi bất thần lặng hẳn đi.
Trong phút lặng lẽ ấy chỉ còn một sợi dây đàn nhỏ bé là còn rung mãi như thể nàng Lọ Lem bị các chị mắng mỏ đang than khóc.
Grigơ ngả người ra, lắng nghe theo cái âm thanh cuối cùng ấy cho đến khi nó tắt hẳn ở trong bếp, nơi chú dế mèn đã dọa đến cư ngụ từ lâu.
Đến lúc ấy mới nghe rõ tiếng vòi nước nhỏ giọt, đếm từng giây, hệt như một cái máy đo tiết điệu. Những giọt nước nhấn mạnh rằng thời gian không chờ đợi ai và cần phải hối hả làm cho xong những điều dự định.
Grigơ viết bản nhạc tặng Đanhi Pêđécxen trong hơn một tháng.
Mùa đông bắt đầu. Sương mù cao xấp xỉ đầu người phủ khắp thành phố. Những con tàu biển han rỉ từ nhiều nước kéo đến gà gật bên những bến cảng lát gỗ, khe khẽ phì phò thở hơi nước.
Chẳng bao lâu tuyết bắt đầu xuống. Grigơ nhìn qua cửa sổ nhà mình thấy những bông tuyết bay chênh chếch, cố bám lấy ngọn cây. Tất nhiên, không thể nào truyền đạt âm nhạc bằng lời, dù cho ngôn ngữ của chúng ta có phong phú đến thế nào chăng nữa.
Grigơ sáng tác về cái đẹp vô cùng của lòng trinh trắng và của hạnh phúc.
Ông viết và trông thấy cô gái có đôi mắt xanh đang nghẹn ngào vì sung sướng, chạy đến với ông. Cô gái vòng tay ôm lấy cổ ông, áp bên má nóng bừng của cô vào cái má đầy những sợi râu bạc lâu ngày không cạo của ông. "Cảm ơn bác", cô nói trong lúc chính cô cũng chẳng biết cô cảm ơn ông vì lẽ gì.
"Cháu như mặt trời – Grigơ nói với cô – cháu như làn sóng êm dịu, như buổi sáng tươi mát. Một bông hoa trắng ngần đã bừng nở trong tim cháu và làm tràn ngập thân cháu hương ngát mùa xuân. Ta rất hiểu cuộc đời. Cháu ạ, dù người ta có nói với cháu những gì đi nữa thì cháu hãy cứ tin rằng cuộc đời thật là kỳ diệu và tuyệt đẹp. Ta già rồi, nhưng ta đã hiến tất cả cuộc đời ta, sự nghiệp và tài năng của ta cho tuổi trẻ. Ta đã hiến tất cả mà không đòi trả lại. Vì thế, có thể, ta còn hạnh phúc hơn cả cháu nữa kia. Đanhi ạ!
Cháu là đêm trắng với ánh sáng huyền ảo của nó. Cháu là hạnh phúc. Cháu là ánh lấp lánh của bình minh. Tiếng nói của cháu làm trái tim mọi người rung động.
Cầu Chúa ban phước lành cho mọi vật chung quanh cháu, cho tất cả những gì chạm tới người cháu và những gì cháu chạm tới, những gì làm cháu sung sướng và bắt cháu phải trầm ngâm suy nghĩ".
Grigơ suy nghĩ và những gì ông suy nghĩ, ông gửi vào phím đàn. Ông ngờ rằng có người nghe trộm ông. Ông còn đoán được ai đang nghe trộm ông nữa. Đó là những con sơn tước trên cành, những tay thủy thủ ngoài cảng quá chén đang lang thang, chị thợ giặt bên hàng xóm, chú dế mèn, những bông tuyết từ trên bầu trời trĩu nặng kia tải xuống và nàng Lọ lem trong bộ quần áo vá chằng vá đụp.
Mỗi người nghe ông theo cách của họ.
Những con sơn tước bối rối. Nhưng dù chúng có loay hoay thế nào mặc lòng những câu chuyện huyên thuyên của chúng cũng không thể át nổi tiếng đàn. Những tay thủy thủ quá chén lang thang ngồi xuống bậc thềm nhà ông, vừa nghe vừa nức nở. Chị thợ giặt đứng thẳng lên, lấy lòng bàn tay lau cặp mắt đỏ hoe và lắc đầu. Chú dế mèn chui ra khỏi kẽ nứt của chiếc lò sưởi lát gạch sứ vuông và nhòm Grigơ qua một khe hở.
Một bông tuyết rơi, ngập ngừng, lơ lửng giữa từng không, nó nghe thấy tiếng nhạc lanh lảnh đang chảy từ trong nhà ra như những dòng suối. Còn cô Lọ Lem thì mỉm cười nhìn xuống sàn. Một đôi giày xinh xắn bằng pha lê nằm bên chân cô. Đôi giày run rẩy, va vào nhau, đáp lại những hợp âm đang từ trong phòng nhà soạn nhạc bay ra.
Grigơ đánh giá những thính giả ấy cao hơn nhiều so với những quý ngài ăn vận sang trọng và lịch sự vẫn thường tới dự những buổi hòa nhạc của ông.
***
Năm mười tám tuổi Đanhi học hết trung học.
Nhân dịp này cha nàng cho nàng về chơi ít lâu với bà Magđa, em gái ông, ở Krixtania. "Cho con bé (cha nàng vẫn coi nàng là con bé con, mặc dầu Đanhi đã là một cô gái có một thân hình cân đối với đôi bím tóc vàng nặng trĩu) biết cái thế giới này nó ra sao, người ta sống thế nào, và cho nó được giải trí một chút".
Ai biết được rồi đây tương lai sẽ dành cho Đanhi những gì? Có thể, tương lai sẽ dành cho nàng một người chồng chân thật và yêu nàng nhưng lại đáng ngán và keo kiệt? Hay một chân bán hàng ở một quán tạp hóa trong làng? Hoặc việc làm tại một trong vô vàn những hãng tàu biển ở Bécghen.
Bà Magđa làm thợ may trong một nhà hát. Chồng bà, ông Ninx, cũng làm trong nhà hát ấy. Ông làm nghề tết râu tóc giả.
Hai vợ chồng ở trong một phòng nhỏ ngay dưới mái nhà hát. Từ trong phòng nhỏ nhìn ra có thể trông rõ biển sặc sỡ những lá cờ hiệu hàng hải và pho tượng Ipxen (1).
Những con tàu suốt ngày cứ chõ vào các cửa sổ bỏ ngỏ mà la hét. Ông Ninx đã nghiên cứu những tiếng kêu của lũ tàu thủy ấy kỹ đến nỗi, theo ông nói, ông có thể biết chắc chắn chiếc tàu nào đang kéo còi: tàu Nôđécmây từ hải cảng Côpenhaghen đến, tàu "Người ca sĩ xứ Ecôtx" từ Glazgô hay tàu "Gan đ'Ar" từ Boocđô.
Trong phòng bà Magđa, có rất nhiều vật dụng của nhà hát, gấm thêu, lụa, tuyn, băng, đồ ren, những chiếc mũ dạ thời xưa gắn lông đà điểu đen, những chiếc khăn san của người Digan, những mớ tóc giả bạc trắng, những đôi ủng cao với cựa bằng đồng, những lưỡi gưm, những chiếc quạt và những đôi giày dát bạc đã nát ở những nếp gấp. Tất cả những thứ đó đòi hỏi phải được vá víu sửa chữa, lau chùi và là phẳng.
Trên tường treo những tranh nhỏ cắt ra từ sách và tạp chí: những kỵ sĩ thời vua Lui XIV, những cô gái đẹp bận váy bông, những trang hiệp sĩ, những người đàn bà Nga trong bộ Xaraphan (2) những tay mạch nô và lũ hải tặcVikinh (3) trên đầu mang những vòng lá sồi.
Muốn lên tới phòng phải leo một cái thang dựng đứng. Ở cầu thang bao giờ cũng phảng phất mùi sơn và mùi vécni bốc lên từ lớp vàng mạ.
* * *
Đanhi thường hay đi xem hát. Đó là một việc hết sức thú vị. Nhưng sau khi xem xong những vở kịch về, Đanhi thường thao thức mãi không ngủ được và đôi khi nàng còn nằm trên giường mà khóc.
Bà Magđa lấy thế làm lo lắng và thường an ủi Đanhi. Bà nói rằng không nên mù quáng tin những gì diễn ra trên sân khấu. Nhưng ông Ninx thì vì thế lại gọi bà là "mụ nái xề" và nói rằng ngược lại, nên tin tất cả những gì xảy ra trên sân khấu. Nếu không thế thì người ta cũng chẳng cần đến nhà hát nào nữa. Và Đanhi tin lời ông.
Tuy vậy bà Magđa vẫn cứ nhất định đòi đi nghe hòa nhạc để đổi món.
Ông Ninx không chống lại ý kiến ấy của bà. Ông nói: "Âm nhạc, đó là tấm gương của thiên tài".
Ông Ninx thích dùng những danh từ cao siêu và mơ hồ. Ông cho Đanhi giống như hợp âm đầu tiên của một tự khúc. Còn bà Magđa thì theo lời ông, lại có một quyền lực siêu phàm đối với mọi người. Quyền lực đó là ở chỗ bà may những trang phục sân khấu. Mà có ai chẳng biết rằng con người cứ mỗi lần thay một bộ quần áo khác là lại biến đổi hẳn. Thành thử anh diễn viên hôm qua còn là tên giết người bỉ ổi, hôm nay đã trở thành chàng nhân tình si mê điên dại, ngày mai lại là anh hề của nhà vua, còn ngày kia anh ta đã lại thành vị anh hùng của nhân dân.
Trong những trường hợp đó bà cô của Đanhi thường kêu lên:
- Đanhi! Cháu hãy bịt tai lại đi và đừng có nghe những lời ba hoa gớm ghiếc của chú ấy làm gì! Chú ấy chẳng biết chú ấy nói gì đâu, lão triết gia kiết xác ấy.
Lúc ấy là tháng sáu, trời ấm. Đang hồi những đêm trắng. Những buổi hòa nhạc được tổ chức ngoài trời, tại công viên thành phố.
Đanhi đi nghe hòa nhạc cùng cô Magđa và chú Ninx. Nàng muốn mặc chiếc áo dài trắng độc nhất của mình, nhưng chú Ninx lại bảo rằng người con gái đẹp cần phải biết ăn mặc sao cho nổi bật hẳn lên giữa những người chung quanh. Nói chung, bài diễn văn dài dòng của ông về chuyện đó có thể tóm tắt lại là trong những đêm trắng nhất thiết phải mặc áo đồ đen và ngược lại, trong những đêm tối trời nên mặc đồ trắng để phô sắc trắng lấp lánh của nó.
Không thể nào cãi lại ông Ninx, Đanhi mặc chiếc áo dài nhung đen, loại nhung lụa tuyết rất mịn. Bà Magđa đã mượn trong kho phục trang của nhà hát cho nàng chiếc áo đó.
Khi Đanhi đã mặc xong, bà Magđa phải chịu là ông Ninx có lý: không gì có thể tôn nước da mai mái nghiêm nghị trên gương mặt của nàng và đôi bím tóc dài lấp lánh vàng mười của nàng bằng thứ nhung huyền bí ấy.
- Này Magđa, mình trông mà xem – chú Ninx nói khẽ – con Đanhi đẹp như thể nó đi gặp người yêu trong buổi đầu tiên ấy.
- Đúng vậy, – bà Magđa trả lời. – Thế mà lần hẹn đầu tiên khi ông đến gặp tôi, tiếc rằng tôi lại chả được thấy ông là một anh chàng điển trai si tình. Ông chỉ là một anh chàng ba hoa.
Và bà Magđa đặt một cái hôn lên mái tóc của chồng.
Buổi hòa nhạc bắt đầu sau khi khẩu đại bác cũ kỹ ở ngoài cảng nổ phát súng thường lệ buổi tối. Phát súng báo hiệu mặt trời lặn.
Mặc dầu là buổi tối, cả nhạc trưởng, cả các nhạc công đều không thắp những ngọn điện nhỏ trên những giá nhạc. Tối hôm đó trời sáng đến nỗi những cây đèn lồng được thắp trong tán lá bồ đề hẳn cũng chỉ cốt để tạo cho buổi hòa nhạc một không khí hội hè.
Lần đầu tiên Đanhi được nghe một bản giao hưởng. Bản nhạc gợi lên trong lòng cô một nỗi xốn xang kỳ lạ.
Những âm thanh chuyển tiếp và những hồi sấm của dàn nhạc gợi lên trong trí Đanhi không biết bao nhiêu là hình ảnh giống như trong những giấc mơ.
Bỗng Đanhi giật mình, ngước mắt lên. Nàng có cảm giác như người đàn ông gày gò mặc áo đuôi tôm đang tuyên bố chương trình biểu diễn vừa gọi đến tên nàng.
- Chú gọi cháu đấy ư, chú? – Đanhi hỏi ông Ninx và ngay đó nàng cau mặt.
Chú nàng nhìn nàng một cách không ra là kinh hãi mà cũng không ra là thán phục. Và cả bà Magđa nữa, bà cũng nhìn Đanhi như vậy, chiếc khăn áp vào miệng.
- Có chuyện gì xảy ra vậy? – Đanhi hỏi.
Bà Magđa nắm lấy tay nàng và nói rất khẽ:
- Nghe kìa!
- Các vị thính giả ở những hàng ghế cuối yêu cầu tôi nhắc lại. Vậy, thưa quý vị, dàn nhạc chúng tôi sẽ trình bày hiến quý vị một khúc nhạc nổi tiếng của nhạc sĩ Êđua Grigơ sáng tác tặng cô Đanhi Pêđécxen, con gái ông gác rừng Hagrup Pêđécxen nhân dịp cô mười tám tuổi.
Đanhi hít một hơi dài đến nỗi nàng thấy tức ngực. Nàng muốn dùng hơi thở đó để giữ những giọt nước mắt đang trào lên họng, nhưng vô hiệu. Đanhi cúi xuống và giấu mặt trong đôi bàn tay.
Thoạt đầu nàng không nghe thấy gì hết. Một cơn giông đang cuồn cuộn trong lòng nàng. Cuối cùng nàng nghe thấy tiếng tù và mục đồng rúc lên trong buổi sớm tinh sương và dàn nhạc dây khẽ giật mình, đáp lại bằng hàng trăm tiếng hát.
Điệu nhạc du dương lớn dần, cất mình lên cao; nó gào lên, bay nhanh qua các ngọn cây, như một luồng gió, vặt hết lá, thổi rạp cỏ xuống đất, quất vào mặt người những giọt nước nhỏ xíu và mát rượu. Đanhi cảm thấy có một luồng không khí do âm nhạc dấy lên phả đến và nàng bình tĩnh lại.
Phải, đó đúng là cánh rừng của nàng, quê hương nàng. Đó là những ngọn núi của nàng, những bài hát của những chiếc tù và, tiếng động của biển quê.
Những con tàu bằng thủy tinh làm nước sủi bọt. Gió reo ca trong những dây buồm. Từ lúc nào không biết, tiếng hát đó đã chuyển thành tiếng những quả chuông nhỏ trong rừng đổ hồi, tiếng đàn chim đang nhào lộn trên không huýt gió, tiếng trẻ con hú gọi nhau trong rừng thành bài hát về người con gái: lúc bình minh người yêu của nàng đã ném một vốc cát vào cửa sổ phòng nàng. Bài hát đó Đanhi đã nghe thấy trên những ngọn núi quê hương.
Vậy ra đó chính là bác ấy. Chính cái ông già đã giúp cô bé Đanhi mang lẵng quả thông về đến tận nhà. Đó là Êđua Grigơ, người làm ra phép lạ và nhạc sĩ vĩ đại? Và người mà nàng đã trách là không biết làm mau chóng.
Thì ra đó chính là món quà mà ông đã hứa cho nàng mười năm sau.
Đanhi khóc, không giấu giếm những giọt lệ biết ơn. Đến lúc ấy bản nhạc đã tràn ngập khoảng không giữa đất đai và mây trời giăng mắc trên thành phố. Sóng nhạc du dương làm cho những đám mây gợn lên lăn tăn và qua những gợn sóng ấy những vì sao lấp lánh.
Bản nhạc đã không còn ca hát. Nó đang kêu gọi. Nó kêu gọi con người hãy đi theo nó đến một xứ sở, nơi không đau khổ nào có thể làm nguội lạnh tình yêu, nơi không có ai đi giành giật hạnh phúc của kẻ khác, nơi mặt trời sáng chói như vòng triều thiên trên đầu một nàng tiên trong cổ tích.
Trong dòng âm thanh cuồn cuộn chảy trôi ấy bỗng nổi lên một giọng nói quen thuộc "Cháu là hạnh phúc – giọng đó nói . – Cháu là ánh lấp lánh của bình minh".
Bản nhạc tắt. Những tràng vỗ tay lúc đầu còn chầm chậm, sau mỗi lúc một mạnh thêm, vang lên như sấm dậy.
Đanhi đứng lên và đi nhanh về phía cổng công viên.
Mọi người cùng quay đầu lại nhìn nàng. Có thể, có một số người trong đám thính giả đã thoáng nghĩ rằng nàng chính là Đanhi Pêđécxen, người con gái mà Grigơ đã dành tặng tác phẩm bất tử của ông.
"Bác ấy mất rồi ư? – Đanhi nghĩ – Vì sao? "Giá mà nàng lại được gặp ông! Nếu ông lại hiện ra ở đây? Hẳn nàng sẽ chạy ào ngay lại với ông, tim đập rộn ràng, nàng sẽ bá lấy cổ ông, sẽ áp bên má ướt đẫm nước mắt vào má ông và sẽ nói chỉ một câu: "Cảm ơn bác". – "Cháu cảm ơn ta vì lẽ gì cơ chứ?" Hẳn ông sẽ hỏi như thế. "Cháu cũng chả biết nữa…" – Hẳn nàng sẽ trả lời. – Vì bác đã không quên cháu. Vì lòng hào hiệp của bác. Vì bác đã cho cháu thấy cái tuyệt mỹ, mà con người thì phải sống bằng cái tuyệt mỹ ấy".
Đanhi đi trên những đường phố vắng tanh. Nàng không biết rằng bà Magđa đã phái ông Ninx đi theo nàng nhưng ông giấu không để nàng trông thấy. Ông đi lảo đảo như một người say rượu, miệng lẩm bẩm không biết những gì về câu chuyện thần kỳ xảy ra trong cuộc sống của họ.
Bóng tối nhợt nhạt của đêm vẫn còn trải trên thành phố. Nhưng trong các cửa sổ đã thấy lấp lánh ánh vàng mạ yếu ớt của bình minh phương Bắc.
Đanhi đi ra bờ biển. Biển vẫn còn ngủ say, không một tiếng sóng vỗ.
Đanhi nắm chặt hai tay lại và rền rĩ vì một cảm giác tuy còn chưa rõ ràng đối với nàng, nhưng đã chiếm lĩnh toàn cơ thể nàng cảm giác về cái đẹp của cuộc đời.
- Đời ơi, hãy nghe đây! – Đanhi nói khẽ. – Ta yêu người.
Và nàng cười, mở to mắt nhìn những ngọn đèn trên những con tàu biển đang chậm rãi ngả nghiêng nơi nước xám và trong vắt.
Ông Ninx đứng ở đàng xa đã nghe thấy tiếng cười đó và ông quay về nhà. Giờ đây ông đã yên tâm về Đanhi. Giờ đây ông hiểu rằng cuộc đời cháu gái ông sẽ không qua đi vô ích.